Thứ Bảy, 11 tháng 9, 2010

Xì căng đan các phe đấu đá nhau chào mừng Đại Hội Đảng

căng đan các phe đấu đá nhau chào mừng Đại Hội Đảng
 
 
 
THƯ HÀ NỘI
Hànội: Ngày  15-08-2010

  Bất cứ Người Việt Nam nào thường xuyên theo dõi hiện tình đất nước thì  đều nhận thấy rất rõ rằng lòng dân trên khắp mọi miền đất nước đã quá  chán ngán, căm phẫn đa số các cán bộ của Đảng và nhà nước Cộng Sản  Việt Nam đương quyền. Bất cứ cương vị cán bộ nào từ thôn, ấp, xã, phường, huyện, tỉnh, trung ương đang ngày đêm vơ vét, ăn quỵt, cướp  bóc, hoành hành làm điêu đứng cả xã hội, nhân quyền và tự do tôn giáo  bị vi phạm nghiêm trọng, cộng đồng dân tộc bị chia rẽ sâu sắc. Thậm chí, những người dân càng hiền lành, chất phát, lao động chân chính bao nhiêu thì lại càng bị những kẻ thống trị trấn áp, cướp giật nhà  cửa đất đai, bị đẩy đến tận cùng của sự nghèo đói, oan khuất và ly  tán.
 
 
 Xã hội gần như là rơi vào tình trạng vô chính phủ, từ trung ương tập quyền tới địa phương cát cứ, quốc nạn tham nhũng tràn lan, tính dối trá và sợ hãi sự thật bao trùm lên cả nước. Tinh thần quốc gia dân tộc  bạc nhược. Người dân sống ở đâu cũng lo sợ nhân tai, nhân họa đến từ  các Cơ quan công quyền, đi đâu cũng phải lo tiền đút lót, hối lộ cho  nhân viên từ hộ lý, y tá, bác sỹ trong bệnh viện đến giáo viên trong  trường học, hay các ngành, các cấp, các cơ quan dịch vụ, truyền thông, công quyền. Cả dân tộc đang phải sinh tồn trong bất ổn trước sự lộng  hành của lưc lượng công an, an ninh, mật vụ. Và, chưa biết bao giờ  nhìn thấy được ánh sáng tương lai tốt đẹp thật sự.
 
 
 Sự mua bán chức, quyền, bằng, cấp gần như công khai. Nếu muốn mua chức  Cục trưởng, Vụ trưởng, Sư đoàn trưởng hay muốn được phong cấp tướng  phải mất vài tỷ đồng. Chạy chức thứ trưởng phải mất 5-7 tỷ đồng. Chức  Bộ trưởng phải tính tiền triệu đô la Mỹ. Dư luận ở Hà Nội biết rõ việc  Ông Lê Thế Thảo chạy chức Chủ Tịch UBND Thành phố Hà Nội mất hơn 30 tỷ  đồng. Rồi chuyện các Lãnh đạo cấp cao của ĐCSVN có nhiều triệu đô la  Mỹ. Mỗi ủy viên trung ương Đảng CSVN hàng năm cũng vơ vét được vài  chục triệu đô la Mỹ là chuyện thường. Cái danh sách tên 300 vị có chức, quyền của đảng và nhà nước CHXHCNVN đã và đang có hàng trăm  triệu đôla đến hơn vài tỷ đô la Mỹ mà rất nhiều người đều biết được loan tải trên mạng internet lâu nay. Rồi chuyện Cựu Bộ trưởng Lê Ngọc Hoàn có hơn 50 cái Vi-la khắp cả nước, có con riêng 7-8 tuổi. Và mấy  ông Bộ trưởng về hưu khác cũng có con riêng nhưng báo chí cấm được viết về những hiện tượng này. Rồi chuyện ông Trịnh Trọng Quyền - Cựu bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa lập Công ty riêng cho con trai để tham gia các thầu xây dựng đường sá trong tỉnh và luôn thắng thầu (theo tin từ Cán bộ đảng viên cao cấp của ĐCSVN). Sau đó bán lại thầu ngay tức khắc lấy 5% tổng giá trị gói thầu. Rồi chuyện lãnh đạo Công ty Gang thép Thái Nguyên cho con mua lại nhà máy thép cũ như là cướp luôn cả nhà máy để bán sắt vụn kiếm tiền. Chuyện Thượng tướng, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, UV TƯ ĐCSVN Nguyễn Huy Hiệu bị một phụ nữ đưa con đến Cơ quan Bộ Quốc Phòng đòi ông Hiệu nhận là con đẻ.
 
  
 Trong nhiều năm qua, công luận Việt Nam lưu truyền sự kiện ông Đỗ Mười nhận 1 triệu USD hối lộ của một Công ty Hàn Quốc. Chuyện ông Lê Đức Anh bị xuất huyết não và nhà cầm quyền Bắc Kinh cử một phái đoàn bác sỹ đặc biệt sang cứu sống. Từ đó ông Lê Đức Anh mang nặng thâm ơn CS Trung Quốc. Hàng năm Trung Quốc vẫn cử một đoàn cán bộ y tế sang kiểm tra, bồi dưỡng sức khỏe cho ông Lê Đức Anh để bằng mọi giá giúp ông Lê  Đức Anh sống lâu hơn. Đây là hành động thể hiện "Thiên Triều" bảo  dưỡng một "tên Thái Thú - Chư Hầu".
 
 Chính ông Lê Đức Anh là người quyết định toàn bộ quá trình bình thường  hóa quan hệ giữa ĐCSVN với ĐCSTQ, nó hoàn toàn bất thường tới mức:
 Lãnh đạo ĐCSVN phải xin ý kiến Bắc Kinh và hướng giải quyết vấn đề để  đàm phán trước khi đàm phán,,,. Đây là bằng chứng rõ ràng Lãnh đạo ĐCS Việt Nam chịu làm Chư hầu, Thái thú, đàn em, làm một tỉnh của TQ hay TQ bảo gì phải nghe nấy. Theo các vị Lão thành cách mạng từng lãnh đạo, cấp trên của ông Lê Đức Anh như ông Phạm Văn Xô (Cựu phó ban Tổ chức TƯ ĐCSVN), Đồng Văn Cống (Cựu phó Tổng Thanh tra QĐNDVN) và Nguyễn Văn Thi (Cựu chủ nhiệm hậu cần Bộ tư lệnh Miền Nam) thì ông Lê Đức Anh đã khai man lý lịch cá nhân và khai man tư cách Đảng viên đảng CS: "Lê Đức Anh không phải là công nhân cao su như tự khai mà là người giúp việc thân cận cho chủ đồn điền De Lalant-một sỹ quan phòng nhì của Pháp. Ông Lê Đức Anh chưa bao giờ được kết nạp vào ĐCSVN", ấy thế mà tự khai là Đảng viên ĐCSVN từ trước năm 1940, nay đã hơn 70 năm tuổi đảng. 
 
 Ông Lê Đức Anh, ông Đỗ Mười và Nguyễn Chí Vịnh cũng đã từng cùng dựng ra vụ Sáu Sứ-Năm Châu để vu khống Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Trần Văn Trà cùng với tay chân định lật đổ Bộ Chính Trị và chính quyền trong dịp Đại hội 7 ĐCSVN, năm 1991. Còn vụ T4 thì ba ông trên đã dựng chuyện quy kết Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, TT Võ Văn Kiệt, TT Phan Văn Khải, CT QH Nguyễn Văn An, bà Võ Thị Thắng,,, là tay sai của tình báo CIA-Mỹ nhằm mục đích triệt hạ uy tín các đối thủ để xây dựng Phe thân CS Trung Quốc, làm tay sai cho Bắc Kinh. Thời kỳ ông Lê Đức Thọ còn sống mỗi khi ông Lê Đức Anh là đệ tử ruột được truyền ngôi đến thăm và đi ra khỏi nhà ông Thọ đều phải đi thụt lùi không dám quay lưng vào nhà ông Lê Đức Thọ. Có ý kiến, nhận định rằng hầu như 100% các sỹ quan quân đội cao cấp của CHXHCN Việt Nam hiện nay đều rất căm ghét „cha con" ông Lê Đức Anh - Nguyễn Chí Vịnh (con nuôi). Nhưng, hầu hết các cấp tướng lĩnh lại rất quý trọng Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Người Anh cả của QĐNDVN. Nhiều nhân sỹ, trí thức, các cựu cán bộ cao cấp của ĐCSVN và nhân dân khắp nơi phải lên tiếng, thậm chí kêu gọi "lật đổ, đảo chính quân sự" thì mới đây Lãnh đạo ĐCSVN đã phải mời Mỹ và Nga vào hợp tác với ASEAN. Ngay lập tức cách đây vài tuần trên Vietnamnet ông Lê Đức Anh có bài viết có nội dung rằng Ông là người đầu tiên bảo trợ cho quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ từ những năm 1986 qua việc cứu giúp một ông Bác Sỹ. Chuyện này có thật hay không?
 
 
 Chuyện con dâu ông Lê Đức Anh là bà Nguyễn Thị Doan cũng nhờ cậy thế thần của bố chồng hiện nắm giữ chức Phó Chủ tịch nước. Qua những chứng cứ trên cho thấy rằng ông Lê Đức Anh là trụ cột cho quan hệ CS Việt Nam - CS Trung Quốc sau năm 1991. Ông Lê Đức Anh, một con người gian trá, xảo quyệt, vu khống dựng chuyện nói xấu các Đại Công Thần thời Cách mạng tháng 8 còn sống đồng thời đẩy đất nước vào tình trạng bị Trung Quốc thôn tính toàn diện, một người hoàn toàn không có tư tưởng triết lý, lý luận gì, mà chỉ có ít mưu mô quỷ quyệt. Hiện tại đất nước ta vẫn  nghèo đói, chậm tiến mọi mặt. Hệ thống chính trị độc tài, tham nhũng thối nát
» Ÿ khắp mọi nơi. Lê Đức Anh đã sống và làm việc chỉ vì lợi ích cho cá nhân và chính con cháu ông ấy, chứ hoàn toàn không vì đất nước, vì dân tộc gì cả. Nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận một "Nhà chính trị" độc ác và tàn bạo, xấu xa như vậy được. Phe đảng của ông Lê Đức Anh - Đỗ Mười thực sự đã hết thời, cần phải chấm dứt một hệ thống cai trị cổ hủ, độc quyền trên đất nước Việt Nam một cách sớm nhất!
 
 
 Ông Nông Đức Mạnh có một khu trang trại rộng lớn ở tỉnh Thái Nguyên. Ông Mạnh thường xuyên đuổi vợ về quê, hàng ngày ông Mạnh sống ở Villa tại Hồ Tây có diện tích 500 m2, có „gái chân dài" vào phục dịch hàng ngày (nguồn tin khá tin cậy cung cấp rằng Tổng Cục II bảo kê 100%).
 Bên cạnh có khu Villa của em ruột cùng cha khác mẹ là Nguyễn Tất Trung  có diện tích là 150m2. Cộng Sản Bắc Kinh khẳng định rằng ông Nông Đức Mạnh đã tự nhận mình là người dân tộc Choang của Trung Quốc. Trong nhiều chỉ thị của lãnh đạo đảng, ông Nông Đức Mạnh nêu v/đ "đất rừng VN chưa dùng đến thì để cho người khác thuê cũng được chứ sao?". Hầu hết các trí thức và người dân Việt Nam ai cũng phê phán và chán ghét ông Mạnh. (Một tiến sỹ, cựu giảng viên ĐHBKHN và ĐH Mỏ Địa chất, nguyên thành viên Ban hiến kế cho Bộ chính trị nói: Ông Nông Đức Mạnh trí tuệ kém lắm, suy nghĩ và nói năng không có một chút lô-gíc nào cả.
 Ý kiến của  một anh nông dân, lái xe ở Nghi Lộc, Nghệ An nói: Ông Nông Đức Mạnh đầu óc tối tăm, không có sáng kiến gì, không làm được gì cho dân, cho nước. Các Cụ Lão thành thì khẳng định " Nông Đức Mạnh đã ngả hẳn vào lòng Trung Quốc rồi") .  Ông Nông Đức Mạnh đã câu kết chặt chẽ cùng với Nguyễn Chí Vịnh là hai nhân vật quyết định cho TQ vào Tây Nguyên khai thác Bauxite nhôm tạo nên một „cửa ngõ" thuận lợi và,hợp pháp" để cho CS Trung Quốc tiến hành xâm lược và thôn tính nước ta. Đây là một trọng tội không thể tha thứ được! Con trai ông Nông Đức Mạnh là Nông Quốc Tuấn sinh năm 1963, đã đi xuất khẩu lao động ở Đông Đức mà khi trở về VN lại làm đến chức Chủ tịch Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam, rồi Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, để dọn đường chuẩn bị vào Bộ chính trị Trung Ương ĐCSVN, rồi kế tục ông Mạnh chăng? Mấy ngày vừa qua hàng chục nghìn người dân Bắc Giang biểu tình đòi giải quyết vụ một thanh niên bị CA đánh chết và chứng kiến Nông Đức Tuấn, Bí thư Tỉnh Ủy Bắc Giang vẫn đưa 2 đầu bếp từ Hà Nội về để nấu món thịt cừu, ăn nhậu phả phê, thiết đãi bạn bè thì thử hỏi ý thức và trí tuệ của một "chính trị gia" vì nhân dân ở chỗ nào? Vậy Phe cánh của cha, con ông Nông Đức Mạnh có xứng đáng là những "chính trị gia" và lãnh đạo đất nước có hơn 4000 năm văn hiến hay không?
 
 Ông Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch Quốc Hội, là một "Lý thuyết gia" của ĐCSVN, một tiến sỹ triết học Mác-Lê-Mao nhưng nói năng không có một chút triết lý hay lý luận gì. Một Nhà chính trị phải có tư tưởng
 riêng, lý luận riêng, chính kiến riêng, có chí khí, có lòng dũng cảm, có nhiều sáng kiến, có tư duy lô-gíc và sâu sắc, có ý thức luôn giữ cho mình trong sạch nhất có thể và phải đạt quyền lợi của đất nước và dân tộc mình lên trên hết. Nhưng, thực tế thì ông Nguyễn Phú Trọng không làm được gì cả, ông chưa thể hiện được giá trị gì cho đất nước. Ông Nguyễn Phú Trọng còn công khai ủng hộ  cho Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác Bauxite nhôm, ý kiến vô trách nhiệm của ông Trọng:
 Quyết „Ngăn cản không cho QHVN  bàn về dự án bauxite,…và lừa rối rằng:
 "Dự án Bauxite có vốn đầu tư chỉ dưới 600 triệu USD". Vậy thử hỏi ông Nguyễn Phú Trọng vì quyền lợi của đất nước và quyền lợi của dân tộc ở chỗ nào? Ông và ông Phạm Quang Nghị cũng là hai người được cử sang Trung Quốc thực tập làm Tổng bí thư của ĐCSVN khóa này. Đây rõ ràng là để
 bằng chứng làm tay sai cho Trung Quốc, chịu thua Trung Quốc, Trung Quốc can thiệp vào nội bộ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Nếu hai Ông ấy là những Chính trị gia tài giỏi thì không bao giờ chấp nhận sang TQ thực tập để làm Tổng Bí Thư giả tưởng - đó là hành động nhục nhã, cúi đầu quy phục Trung Quốc! Trong dịp ĐH ĐCSVN năm 2006 ông Giả Khánh Lâm là Ủy viên BCT, CT QH Trung Quốc còn sang Hà Nội đặt một „ Bộ chỉ huy" để theo dõi và chỉ đạo ĐH của ĐCSVN (theo tin của cán bộ cao cấp của ĐCSVN). Hiện nay còn có tin BCT ĐCSVN phải báo cáo tình hình nhân sự từ cấp tỉnh hay các cấp bí thư từ cấp quận, huyện đều phải sang Trung Quốc tập huấn chính trị. Ở các tỉnh Biên giới giáp với TQ thì phải báo cáo nhân sự từ cấp huyện trở lên đối với những huyện giáp biên giới với TQ. Vậy Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành Trung Ương ĐCSVN đã hoàn toàn là bù nhìn!
 
 Ông Nguyễn Tấn Dũng nguyên là một viên cứu thương trong một đơn vị địa phương quân ở chiến khu Cà Mau. Khi còn là một người lính, với tin đồn khá chính xác là con của một Đồng chí của ông Võ Văn Kiệt (nhưng cũng có tin là con rơi của cựu Đại tướng Nguyễn Chí Thanh). Ông Nguyễn Tấn Dũng nguyên trình độ chưa học hết cấp I, sau năm 1975, học tại chức mà đỗ đạt tới cử nhân luật (không rõ từ năm nào đến năm nào, ở trường nào, ai là thầy dạy?), ông ta tự khai, thân thể mang tới 32 vết thương. Một người bạn của ông Dũng nay làm quan lớn ở tỉnh Thanh Hóa nói rằng ngày trước phải luôn giúp làm hộ bài, chép bài thế cho ông Dũng vì ông Dũng không biết gì cả. Vậy một Chính trị gia lại học dốt, để cho bạn chép bài hộ à? Nhân dân Việt Nam chưa nghe thấy ông Dũng không có tư duy riêng, cũng chẳng có lý luận gì hết. Ông chưa nói được câu nào chúng ta thấy có giá trị, thấy có lô-gíc, hoàn toàn không có tố chất chính trị gì cả. Ông lại là một người ba phải. Khi ông Võ Văn Kiệt còn sống thì ông Dũng có chỗ dựa nên còn dám chống lại Phe tay sai Trung Quốc của ông Nông Đức Mạnh. Khi ông Kiệt chết thì ông Dũng ngả hẳn theo Phe ông Nông Đức Mạnh + Nguyễn Chí Vịnh. Gần đây, ông  Dũng đi ký hợp tác làm ăn với mấy địa phương trực thuộc mấy tỉnh của Trung Quốc. Rõ ràng là hành động của "một chính trị gia rừng tràm U Minh hạ". Đất nước ta, dân tộc ta chỉ ngang hàng với một địa phương, một tỉnh của Trung Quốc hay sao? Làm như vậy TQ sẽ „phỉ nhổ" và mặt ông Dũng - Thủ tướng CHXHCN Việt Nam. TQ  chỉ xem Việt Nam như một tỉnh, một địa phương nhỏ của họ, sẽ vô cùng thiệt hại, tai hại cho các ngành, nghề giao thương, hàng hoá Việt Nam". Đây là một hành động thiển cận phục vụ ý đồ thôn tính nước ta của TQ. Ông Dũng lại cho xây dựng nhà thờ họ ở quê tốn tới 40 tỷ VNĐ, trong khi dân chúng đói khổ và thiếu việc làm khắp nơi, trẻ em thiếu trường, lớp học, bệnh nhân không gường nằm, người ốm đau thiếu thuốc men, dân chúng sinh sống không điện, nước. Trong nội bộ cơ quan Trung ương loan tin rằng "Doanh nghiệp nào muốn ông Dũng đến thăm thì phải chi 1, vài trăm triệu đồng cho ông Dũng và cho trợ lý của ông Dũng cũng phải 50 triệu đồng là ít". Nghe tin con ông Dũng ở Tây Nguyên hay đứa ở lấy chồng ở Mỹ đang sống như đế vương vậy. Các quan sếp tỉnh hay cac cơ, ngành… làm gì cũng phải chạy đến hỏi con ông Dũng. Và, mỗi lần hỏi, cậy nhờ là phải có „bao thư xanh".
 
 Dũng vẫn tưởng trò ranh ma hơn người là gả con gái cho con của sĩ quan VNCH  "kẻ thù  không đội trời chung  với CS" đã vượt biên hiện đang cư ngụ ở Hoa Kỳ để  làm phương tiện hay cứu  cánh cho hành động ăn cướp và bỏ chạy khi lâm nguy.  Nhà chính trị phải chứng tỏ mình thông minh, tài trí, cao siêu, cao thượng để nhân dân và thế giới nể phục, chứ như ông Dũng thì không ai có thể nể trọng được. 
 
 
 Ông Phùng Quang Thanh nghe tin đồn thổi là con cháu mấy đời của ông Phùng Khắc Khoan, cũng  như các vị Ủy viên BCT ĐCSVN khác chẳng có gì đặc biệt. Từ lúc 17-18 tuổi vào bộ đội làm lính binh nhì thì làm sao có thể trở thành một chính trị gia giỏi được? Ông Thanh cho TGĐ Công ty xăng dầu Quân đội bán xăng dầu dự trữ quốc phòng để kiếm chênh lệch bỏ túi hàng trăm tỷ đồng, để khi quân đội cần xăng diễn tập thì không có mà dùng. Ông Thanh còn nhận hối lộ của một Tỉnh đội trưởng hàng tỷ đồng để được phong lên cấp tướng. Trong dịp đi thăm Trung Quốc vừa rồi Báo QĐND viết: "Đồng chí Phùng Quang Thanh lên báo cáo Đồng Chí Từ Huy Hậu". Ông Từ Huy Hậu chỉ là một viên tướng của Trung Quốc, phó chủ tịch quân ủy TQ, ngang hàng với Thứ trưởng Bộ QP Trung Quốc mà ông Thanh là Bộ trưởng BQP Việt Nam lại phải đến "báo cáo". Như vậy Bộ trưởng BQP Phùng Quang Thanh chỉ như một Tỉnh đội trưởng lên báo cáo với Thứ trưởng BQP? Đây là một động thái mạt nhược, ươn hèn hiếm có trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tổng biên tập báo QĐND và cá nhân đưa tin đó lên rõ ràng đã bị bàn tay của bọn Tay sai - Thái thú của TQ chèn ép, chỉ đạo hay tự nguyện làm tay sai cho TQ rồi.
 
 Nhân vật, Nguyễn Chí Vịnh ai cũng biết là con Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, một đối trọng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày xưa, thuộc phe ông Lê Duẩn-Lê Đức Thọ. Vì vậy ông Nguyễn Chí Vịnh được nhận là con nuôi của ông Lê Đức Anh. Ngày trước đi học tuy là con nhà quyền uy, giàu có nhưng vẫn đi ăn trộm, ăn cắp Kho Quân Nhu của Học viện Kỹ thuật Quân Sự nên bị đuổi học cùng với một số đồng sự khác. Ăn cắp, ăn trộm trong Trường Sĩ Quan-khi đã là người trưởng thành- là chuyện quá ti tiện, hèn mạt, xấu xa, phi đạo đức không ai có thể chấp nhận được thế mà đòi đi làm chính trị, lại còn nhăm nhe lên tới chức Tổng Bí Thư. Một tên ăn cắp thuở nào là thứ trưởng, trung tướng thì ảnh hưởng vô cùng xấu xa đến toàn bộ binh sỹ, sỹ quan QĐND Việt Nam, chưa nói  tới là Ủy viên BCT hay Bộ Trưởng Bộ QP, dự định còn làm TBT ĐCSVN thì sẽ gây nguy hại đạo đức của các Đảng viên ĐCSVN còn có lương tri, nhân cách. Nhưng,  CS TQ- với tư cách là nước muốn thôn tính Việt Nam và 
muốn biến Việt Nam ta thành nước chư hầu- lại rất cần những kẻ làm tay sai. Chỉ có những kẻ xấu xa, gian trá, dốt nát mới chịu làm tay sai-thái thú cho nước khác để phản lại lợi ích của dân tộc mình, của đồng bào mình để bản thân, gia đình vợ con được hưởng sung sướng, bổng lộc trước mắt của kẻ tay sai-thái thú.

 
 Nguyễn Chí Vịnh như đã ghi nhận ở trên đã tham gia cùng ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Nông Đức Mạnh những chuyện rất xấu xa, thiếu nhân cách. Nguyễn Chí Vịnh là người đã gọi điện cho ông Nguyễn Tấn Dũng năm nào nói ông Dũng cho TQ thắng thầu xây sân Mỹ Đình với giá 55 triệu USD, trong khi đó CHLB Đức bỏ thầu chỉ có 50 triệu USD thì thua thầu.
 Thức tế thì Vịnh và Dũng đã nhận " tiền lót tay" của nhà thầu TQ là bao nhiêu, có ai biết được? ) Nguyễn Chí Vịnh còn trực tiếp sang Trung Quốc chọn gái tên là Trương Vỹ Hoa cho ông Lê Khả Phiêu chơi bời một tuần để sinh đẻ ra một đứa con nay đã mười mấy tuổi để rồi ông Lê Khả Phiêu phải hạ bút ký Hiệp định Biên giới năm 1999.
 
 Nguyễn Chí Vịnh là „con thoi" „cầu nối" giữa ông Nông Đức Mạnh với Bắc Kinh để cho TQ vào VN khai thác Bauxite. Tay chân của Nguyễn Chí Vịnh trong TC2 toàn là những kẻ hư đốn và ăn cắp năm nào ở Học viện Kỹ thuật Quân sự. Nguyễn Chí vịnh đã cung cấp cho phía Trung Quốc danh sách cán bộ lãnh đạo Việt Nam có cảm tình và không có cảm tình với Trung Quốc. Dựa vào danh sách này Trung Quốc đã mua chuộc và gây ảnh hưởng lên hàng ngũ lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay để từng bước biến lãnh đạo ĐCSVN trở thành tay sai-thái thú. Đây rõ ràng là một hành động làm chỉ điểm cho nước ngoài, một hành động làm tay sai cho Trung Quốc, một hành động tội phạm, phản bội Tổ Quốc của Nguyễn Chí Vịnh. Nhiều nguồn tin khác nói rằng còn nhiều cá nhân khác trong nội bộ ĐCSVN làm như Nguyễn Chí Vịnh. Theo các sỹ quan quân đội cao cấp ở Hà Nội thì vừa qua 18 tỉnh cho Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông (thực chất là người TQ tất cả) thuê đất rừng đều có sự chỉ đạo của Tổng Cục 2 của Nguyễn Chí Vịnh. Với những việc làm bất hảo và phạm pháp như nêu trên Nguyễn Chí Vịnh có xứng đáng là Trung Tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng hay không?

Và đây cũng là bằng chứng chứng tỏ rằng Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Nông Đức Mạnh chủ đích nâng đỡ Nguyễn Chí Vịnh- tên tay sai của TQ, có nhiều điều xấu xa, bất hảo- chẳng hiểu biết gì chính trị cả, mà cốt vì bảo vệ quyền lợi ích kỷ của các ông ấy. Họ không xứng đáng một chút nào là những "Nhà chính trị", nhà lãnh đạo đất nước hay có trách nhiệm với nhân dân!
 
 Còn các Vị Ủy viên Trung Ương ĐCSVN khác như ông Hoàng Trung Hải hay Nguyễn Thiện Nhân, các Bí thư tỉnh ủy khác thì „chỉ ngậm miệng" ăn tiền chia chác hay cũng chỉ như cái đuôi, cái bóng của ông Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng và một số UV BCT mà thôi,Quốc Nạn tham nhũng, hối lộ, cướp bóc, trấn lột, đánh, bắn, giết người xẩy ra 24/24 trên toàn cõi Việt Nam. Xin mạn phép hỏi toàn thể 85 triệu đồng bào Việt Nam có thể mãi cúi đầu chịu đựng hết đời mình, đời con, cháu chúng ta được chăng?  liệu có thể tiếp tục chấp nhận sự bất công, nghèo đói và vô vọng một khi mà các "Nhà chính trị,  lãnh đạo" của hệ thống độc tài toàn trị CSVN bất tài, vô dụng đang bủa vây, khép kín, đè đầu cưỡi cổ  nhân dân ta hay không? Chắc chắn là không – Toàn dân cẩn phải thức tỉnh và đứng dậy khi thấy cần thiết.
  
 Ở CHLB Đức trong những năm 90 của Thế kỷ trước, ông Engholm- Chủ tịch đảng đối lập SPD, Thống đốc bang, Ứng cử viên tranh chức Thủ tướng với ông Helmut Kohl- bị phát hiện gian lận về việc đóng thuế thu nhập đã phải họp báo xin chấm dứt sự nghiệp chính trị, trở về làm một ông Luật sư quèn. Từ đó vĩnh viễn không bao giờ nói tới chính trị nữa. Còn ông Sharping - nguyên là một người hoạt động chính trị từ thời học sinh cấp 3, Thống đốc bang, có lần ra tranh cử Thủ tướng, là Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Thủ tướng của CHLB Đức là Gehart Shreoder (thỉnh thoảng bây giờ Ông vẫn đến Việt Nam) -  Ông ấy chỉ bị phát hiện "cầm nhầm" có 1000 EURO (một nghìn EU ) mà phải tuyên bố từ chức Bộ trưởng BQP, chấm dứt sự nghiệp chính trị  về làm dân thường, không bao giờ dám xuất hiện trước công chúng nữa. 
 
 Qua những dẫn chứng như trên chúng ta có thể kết luận rằng Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Phùng Quang Thanh, Phạm Quang Nghị, Hoàng Trung Hải, Nguyễn Chí Vịnh và các UV TƯ ĐCSVN khác hoàn toàn không xứng đáng là các "chính trị gia" của Dân Tộc ta, không xứng đáng giữ các vị trí lãnh đạo đất nước, cần phải rút lui càng sớm càng tốt! Nếu không biết điều sớm thì e rằng sẽ chuốc lấy hậu họa như ông Ceaucescu-cựu Tổng bí thư ĐCS Rumani- và Honecker- cựu Tổng bí thư ĐCS Đông Đức năm 1989, hay ông Escada-cựu Tổng thống Philippin- tham nhũng 1 triệu USD và bị  kết án 20 năm tù giam. Bài học gianh ma của cựu Thủ tướng Thái lan, Thalshin  không thoát khỏi "lưới trời" đã bị tịch thu tài sản và lệnh  truy nã toàn cầu… 
 
 Tình hình quốc tế và khu vực hiện hiện nay đang diễn ra khá thuận lợi cho hướng đi đúng đắn của cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ, nhân quyền, công bằng và bác ái cho dân tộc Việt nam chúng ta. Lực lượng đối lập chính nghĩa với Phe đảng chóp bu cầm quyền phi nghĩa nêu trên (họ chỉ là một bộ phận nhỏ trong số đảng viên ĐCSVN) Toàn dân Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước sẽ có đủ khả năng trí tuệ, nhân tài, vật lực đối trọng đã và đang hình thành là đòi hỏi bức thiết trong nước. LL đối lập với bốn vị tướng đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung Tướng Đồng Sỹ Nguyên, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh với hàng chục tướng lĩnh khác cùng các vị Lão thành cách mạng kết hợp với các lực lượng trí thức, quân đội, cảnh sát, sinh viên, quần chúng yêu nước đang khát khao Tự Do – Dân Chủ và Phát Triển Việt Nam thực sự sẽ phải cương quyết đấu tranh bằng mọi giá để giành lại vận mệnh Tổ Quốc đang lâm nguy đứng trước bờ vực thẳm, quyết tranh đấu giành nắm quyền lãnh đạo đất nước và đẩy Phe đảng cầm quyền hiện nay vào thế đối lập.  Để chuẩn bị cho việc thành lập một lực lượng đối lập có mặt trên toàn quốc nhằm cạnh tranh ôn hoà với Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Chí Vịnh thì ngay từ lúc này từ mỗi Thôn, Ấp, Bản, Khu phố hãy kết nối các công dân yêu nước có cùng chí hướng thành những nhóm nhỏ 2-5 người. LL đối lập yêu cầu Phe đảng cầm quyền hiện nay chấp nhận Tổng Tuyển Cử tự do, bầu lại Quốc Hội và Người đứng đầu đất nước trong thời gian sớm nhất.
 
Nhân dân cả nước đều nhận thấy rằng Hiến pháp và Pháp luật hiện nay là của  Phe đảng cầm quyền, chứ hoàn toàn không phải của toàn thể Nhân dân Việt Nam. Lực lượng đối lập lấy phương châm ôn hoà, đối thoại  làm chủ thuyết đấu tranh. Tuy nhiên, thời gian và hiệu qủa không đạt được thì bắt buộc phải kêu gọi toàn dân xuống đường cùng các phương sách tương ứng để biểu dương sức mạnh và hào khí dân tộc. Đó là những hành động thực tế nhất để cứu nguy cho đất nước của chúng ta. 

Chúng tôi cũng kêu gọi tất cả lực lượng võ trang trong  đó có những  chiến  sĩ, sĩ quan Công an, Quân đội đang tại ngũ, và  lực  lượng cựu chiến binh từ hai phía của hai miền Nam – Bắc trước 1975  còn có lương tri trong tình tự dân tộc, nghĩa đồng bào đồng thời kêu gọi toàn thể các Tôn giáo  Việt Nam  hãy tiếp tay, hỗ  trợ. Đó là những hành động thực tế nhất để cứu  nguy cho đất nước của chúng  ta. 
 
 
 LL đối lập xin kêu gọi toàn thể đồng bào hải  ngoại, các đảng phái, chính  khách, hiệp hội, phương tiện truyền thông quốc tế hãy  tiếp  giúp và yểm trợ  cho sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam  chúng tôi.
 
 Tổ Quốc Việt Nam sẽ ghi ơn tất cả sự hy sinh, cống hiến của các Quý vị và các bạn!
 
 Độc tài cộng sản đã hết thời, Tự do dân chủ cho Việt Nam, Tổ quốc trên hết!

Thứ Hai, 16 tháng 8, 2010

Thời sự đất nước : Coi chừng ! cuộc đảo chính không tiếng súng

 Thời sự đất nước :       Coi chừng !   cuộc đảo chính không tiếng súng 

 

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đột nhiên xuất hiện trên báo Quân đội Nhân dân sáng ngày thứ bẩy 14-8-2010 trong một cuộc trả lời phỏng vấn.

Trước đó 2 tuần, khi ông Vịnh với tư cách Thử trưởng Quốc phòng họp với 70 quan chức quốc phòng của các nước Đông Nam Á để chuẩn bị cho cuộc họp các bộ trưởng Quốc phòng vào tháng 10 tới, báo trong nước đều yên lặng, không đưa tin. Tin này chỉ được biết đến trên báo Thái lan, Xingapo…

Cuộc trả lời phỏng vấn lần này nói về sự kiện tàu chiến Mỹ, tàu sân bay G. Washington và tàu khu trục Mc Cain đến gần và cặp bến Việt nam. về mối quan hệ về quốc phòng giữa Việtnam với Hoa kỳ, Trung quốc và các nước khác.

Điều quan trọng là ở cuối cuộc phỏng vấn, trung tướng Vịnh cho biết đến ngày 17-8 tại đây sẽ diễn ra  ' cuộc đối thoại chiến lược về chính sách quốc phòng cấp thứ trưởng giữa Việt nam và Hoa kỳ '.  Ông nói rõ : ' Cuộc đối thoại sẽ nêu lên các vấn đề liên quan đến chính sách quốc phòng 2 nước, bàn các biện pháp để tăng cường quan hệ quốc phòng 2 nước, có thể tham khảo lập trường của nhau về các vấn đề cùng quan tâm '.

 

Một số bạn trong nước, - nhà báo, sỹ quan cấp cao tại chức -  cho biết đây có thể là chuyện quan trọng, rất hệ trọng, quan hệ đến an ninh đất nước, thậm chí đến vận mệnh quốc gia, cần thông tin gấp, bàn luận rộng và kéo còi báo động cho bà con ta trong cả nước.

 

Đầu đuôi câu chuyện có thể nói tóm tắt là như sau. Nguyễn Chí Vịnh là nhân vật trung tâm của cái gọi là  « Vụ án siêu nghiêm trọng » liên quan đến Tổng cục II, cơ quan tình báo quân sự, được nâng lên thành cơ quan tình báo quốc gia có quyền hạn không hạn chế, một nhà nước trong nhà nước, do Nguyễn Chí Vịnh làm thủ trưởng.

Những người ra sức ủng hộ, bênh che mọi tội lỗi, còn muốn và quyết đưa gấp lên cao hơn nữa Nguyễn Chí Vịnh là : 2 ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh, nguyên Tổng bí thư và Chủ tịch nước, là Tổng bí thư đương quyền ( sắp nghỉ ) Nông Đức Mạnh.  Đằng sau các vị này là thế lực bành trướng nước lớn, là cơ quan tình báo Hoa nam kết nghĩa keo sơn với Tổng cục II , như  lời kể của trung tá Vũ Minh Trí cán bộ kỳ cựu của TCII.

Ý định hiện nay của các vị trên đây là đưa Vịnh vào chức cao trong Bộ quốc phòng, cao nhất là sẽ vào chức Bộ trưởng Quốc phòng thay Đại tướng Phùng Quang Thanh vào dịp Đại hội XI đầu năm 2011.

Cũng có sự phán đoán xa hơn về mưu đồ sẽ đưa Vịnh lên vị thế Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước vào Đại hội XII – năm 2016. Đó là kỳ vọng của những kẻ duy ý chí, tự tin quá mức.

 

Cản trở trên con đường danh vọng của Vịnh không ít. Có thể kể ra đây trước hết một loạt tướng lĩnh đã tỏ rõ thái độ, như các Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chu Huy Mân, Nguyễn Quyết, các Thượng ướng Lê Ngọc Hiền, Phùng Thế Tài, Đặng Vũ Hiệp,  Hoàng Minh Thảo,  các Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên , Nguyễn  Nam Khánh, Lê Tự Đồng… và hơn 20 thiếu tướng, hơn 60 đại tá, một số lớn sỹ quan, cựu chiến binh không sao biết đích xác .

Thêm vào đó là hàng trăm vị đảng viên kỳ cựu, (có vị trước khi  mất cũng dối dăng lại) -như Nguyễn Văn Xô, Đồng Văn Cống, Nguyễn văn Bé, Nguyễn Thị Cương, Trần Trọng Tân , NguyễnVăn Thi , Nguyễn Trọng Vĩnh …

Ngày 15-7-2010 mới đây nhất, 12 đại tá đều từng là cấp trên, cấp chỉ huy của Vịnh lại gửi kiến nghị cho Bộ chính trị và Ban kiểm tra trung ương đảng, chỉ rõ :  «  Nguyễn Chí Vịnh vẫn được thăng Trung tướng, bổ nhiệm Thứ trưởng Quốc phòng là một sự xúc phạm lớn đến danh dự và uy tín của các thế hệ tướng lĩnh, sỹ quan và bộ đội chúng tôi » . Kiến nghị tán thành lá thư ngày 10-7-2010 của 38 tướng lĩnh và sỹ quan cấp cao , yêu cầu « không để làm Thứ trưởng Quốc phòng, không được cơ cấu vào đại biểu đi dự Đại hội đảng toàn quân, toàn quốc và vào danh sách bầu cử Ban chấp hành Trung ương khóa XI  » .

 

Sau khi ông Nông Đức Mạnh vào giữa năm 2006 không ép được cuộc họp cuối của Ban chấp hành trung ương khóa X ghi tên Nguyễn Chí Vịnh và Nông Quốc Tuấn (con ông Mạnh ) vào danh sách trung ương khóa X, bị thất bại, ông Mạnh và các ông Mười + Anh vẫn  « cố đấm ăn xôi  », dựa vào quyền lực đang còn ; ông Mạnh ép được bộ chính trị đưa Nguyễn Chí Vịnh vào chức Thứ trưởng Quốc phòng, và đang tận dụng ngày tháng còn tại chức , còn nắm quyền để đưa Vịnh lên gấp cao hơn nữa, thành chuyện đã rồi.

 

Ngày 17-8, tưóng Vịnh sẽ tiếp Phó trợ lý Bộ trưởng  Quốc phòng Hoa kỳ Robert Scher tại Hànội.  CIA biết rõ ông Vịnh là người của ai rồi. Họ rất ít khi lầm lẫn .  Tiếp đó nếu không có gì xảy ra Vịnh sẽ dự cuộc họp các Bộ trưởng Quốc phòng 10 nước Asean + 8 bộ trưởng Quốc phòng các nước khác, trong đó có Trung quốc và Hoa kỳ.  Vịnh sẽ dự bên cạnh Bộ trưởng  Phùng Quang Thanh hay tự Vịnh dẫn đầu đoàn Việt nam ? . Đây sẽ là cuộc họp rất lớn, được dư luận toàn thế giới theo dõi chặt chẽ, do tình hình căng thẳng ở biển Đông. Ngay sau đó sẽ là Đại hội đảng toàn quân. Vịnh có đi dự hay không, có được bầu đi dự Đại hội đảng toàn quốc XI hay không ?  đang là những dấu hỏi lớn.

 

Sắp đến ngày 25-8 sẽ là ngày sinh nhật thứ 99 - bước vào tuổi 100 , của tướng Võ Nguyên Giáp. Nhớ lại năm kia, khi ông Nông Đức Mạnh đến chúc thọ tướng Giáp và khi tướng Giáp nhắc đến vụ Tổng cục II ' cần giải quyết ngay cho triệt để, đúng luật nhà nước và kỷ luật quân đội ', ông Mạnh đã xoa dịu rằng  '  xin vâng lời Đại tướng, chúng tôi đang tìm nơi để đưa cậu ta đi rèn luyện ' .

 

Lời hứa của một tổng bí thư !  Đưa đi rèn luyện ? Rèn luyện ở chức Thứ trưởng Quốc phòng ? rồi rèn luyện ở vị thế người giới thiệu Sách Trắng về Quốc phòng cho công luận ? lại còn rèn luyện trong tư cách đi gặp chính thức bộ trưởng quốc phòng Trung quốc, Úc, và nay là rèn luyện trong vị thế đối thoại Quốc phòng với Hoa kỳ ?   để còn 'rèn' tiếp nữa'.

Quả thật là Bộ chính trị hiện nay cầm đầu là ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh không coi những ý kiến, kiến nghị của đông đảo tướng lĩnh, sỹ quan, cựu chiến binh ra gì, vì  già nua, không còn quyền lực chăng ?  Và cũng không coi chính kiến của ngàn vạn trí thức, văn nghệ sỹ, nhà báo yêu tự do, các luật sư đòi công bằng xã hội ra gì cả !

 

Và khi mà Trung quốc đã nắm trọn chìa khóa về kinh tế - hiện họ đã trúng thầu hầu hết các công trình trọng điểm về khai khóang, luyện kim, điện lực, cơ khí, giao thông… ;  khi họ vào sâu tận vùng chiến lược Tây nguyên ; khi về chính trị họ có thể sai bảo Bộ chính trị ngoan ngoãn đến vậy, và khi họ cài được vào Bộ quốc phòng một con người thân tín – tình báo đầu sỏ lợi hại đến vậy - , thì đất nước ta sẽ ra sao đây ?

Diễn biến hòa bình là đây chứ ở đâu !  Không gặp kháng cự mạnh mẽ,  họ sẽ làm tới !

Và một cuộc đảo chính êm ru, theo tính toán, thăm dò từng bước, lặng lẽ, không tiếng súng, đang được thai nghén, đang diễn ra trước nhãn tiền.

 

Đất nước lâm nguy ! Thậm cấp !  Chí nguy ! Chí nguy !  Kẻ thù không phải đã đến sát biên giới, không , kẻ bành trướng đã kéo quân vào sâu trong nội địa, chiếm lĩnh những lãnh vực, vị trí quyền lực xung yếu nhất. Mọi người Việt ta đã nhận rõ chưa ?

Đất nước Việt nam ta, đất nước Anh hùng. Khi Tổ quốc lâm nguy bao giờ cũng có triệu triệu tấm lòng hào khí bật dậy dấn thân cho Đại nghĩa Dân tộc.

Phải thế chăng ? Mỗi người Việt , mỗi con dân Việt xin hãy trả lời !

Bùi Tín         16-8-2010

__._,_.___

Chủ Nhật, 15 tháng 8, 2010

Fwd: [ChinhNghiaViet] Ngã Rẽ Quyết Định

Ngã Rẽ Quyết Định

Vi Anh
Việc công khai và quyết liệt trở lại Đông Nam Á của Mỹ đã biến tình hình gay cấn ở Biển Đông thành một thế chân vạc. Vần đề đặt ra là thử xét xem CS Hà nội chọn phe nào, Mỹ hay TC, hay đi đu dây giữa hai thế lực ngoại bang Mỹ và TC ấy.
Một, TC tăng mạnh và nhanh đà bành trướng lãnh thổ, lãnh hải và thế hải thượng (suprématie maritime) trên Thái Bình Dương. TC tung hoành lục tặc trên Biển Đông vì coi thường phản ứng quá yếu ớt của các nước Đông Nam Á. TC coi Biển Đông tuyên xưng "quyền lợi quốc gia thiết yếu", coi như cái ao nhà sau của mình. Đã lấy hai đảo Hoàng sa và Trường sa của VN. Đã công bố bản đồ hình lưỡi bò chiếm mất 80% lãnh hải của VN và ra lịnh cấm đánh cá mấy lần rồi.
TC đang cần đến nguồn năng lượng và nguyên liệu từ khắp nơi trên thế giới nên như  "Phó Tư lệnh Đông Hải Hạm đội, Chuẩn Đô đốc Trương Hoa Trần của TC đã nói với nhật báo Singapore The Straits Times: "Với việc mở rộng quyền lợi kinh tế của Trung Quốc, lực lượng hải quân muốn bảo vệ tốt hơn các tuyến giao thông vận tải, và đảm bảo an toàn cho các tuyến hàng hải chủ chốt của mình."
Hai, Mỹ bị thách thức về thế hải thượng chiến lược có tính toàn cầu của Mỹ trên Thái Bình Dương. Đô đốc Robert Willard, Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ, cho biết trong tháng tư: "Đặc biệt đáng quan ngại là các yếu tố hiện đại hóa quân sự đó của Trung Quốc lại có dấu hiệu là nhằm thách thức quyền tự do hành động của chúng ta trong khu vực." Biển Đông là vùng biển có thể kiểm soát đường hàng hải huyết mạch của quốc tế. Trên mặt biển, một phần ba của tất cả hàng hóa chuyển vận bằng đường thủy đều đi qua vùng biển này. Bắc Thái bình Dương có nhiều nước đồng minh  thân thiết với Mỹ, có quân đội Mỹ trú đóng như Nhựt và Nam Hàn. Dưới thềm lục địa của đáy biển vùng này chứa các mỏ dầu khí rất lớn mà TC gọi là "vịnh Ba Tư ở châu Á". TC tăng cường và hiện đại hoá Hải Quân, mở rộng "phòng ngự viễn dương" ra tận đảo Guam của Mỹ, Indonesia và Úc. TC đã  mở nhiều cuộc tuần tra và tập trận đầy gây hấn.
Mỹ không thể để TC  tự chuyên thay đổi địa lý chánh trị và chiến lược mà Mỹ muốn hay không muốn đang cầm còi. Hội nghị an ninh vùng của tổ chức ASEAN họp tại Hà nội là nơi Mỹ  chánh thức  phá thế cờ của TC một cách qui mô. Đích thân Ngoại trưởng Hillary Clinton đi họp và tuyên bố việc giải quyết tranh chấp ở biển Đông là 'quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ. Mạnh dạn phủ nhận việc tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên toàn bộ 1,3 triệu dặm vuông của biển Đông mà TC công bố bằng bản đồ hình luỡi bò và gọi là biển Nam Hải.
Trong hội nghị này, 11 nước của ASEAN trong đó có VNCS, ủng hộ lập trường của Mỹ  là  quốc tế hoá vấn đề Biển Đông, giải quyết trên căn bản đa phương, chớ không song phương giữa TC với nước có liên quan như TC lâu nay tuyên bố. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì quá tức giận, phản đồi bỏ phòng họp cho Mỹ "tấn công TQ." Khi quay lại, ông ta đã hùng hồn lên án Mỹ xúi giục các nước chống lại Trung Quốc, chế diễu «chế độ xã hội chủ nghĩa » của Việt Nam, và nhìn thẳng vào mặt người đồng nhiệm Singapore khi tuyên bố: «Trung Quốc là một nước lớn, các nước khác là nước nhỏ, và đây là một thực tế».
Ba, các Nước Đông Nam Á từ lâu lo ngại, tự võ trang phòng thủ nhưng thiếu lá chắn vì Mỹ còn lơ là với Đông Nam Á cho đến khi Ngoại Trưởnng Hillary Clinton minh thị tuyên bố can dự vào Biển Đông.  Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm của Thụy Điển cho biết trong 5 năm từ 2005 đến 2009 các nước ASEAN mua số lượng vũ khí tăng gấp đôi thời gian trước vỉ cảm nhận TC là một mối lo lớn.
Đặc biệt VN dù nhà cầm quyền cùng chế độ CS như TC nhưng là nước giáp giới với TC từng bị lệ thuộc Tàu cả ngàn năm mua sấm vũ khí phòng thủ nhiều nhứt. 2,4 tỷ đôla 6 tàu ngầm và khoảng một chục máy bay chiến đấu Su-30MKK của Nga. Và nhờ Pháp cố vấn quân sự.
Bốn và sau cùng,  liệu nhà cầm quyền CS Hà nội đi với Mỹ hay đi với TC hay đi đu dây giữa hai thế lực tranh giành thế hải thượng trên Nam Thái Bình Dương? VN là nước bị mất đất mất biển vào tay TC nhiều nhứt. So với TC về đủ mọi mặt, CS Hà nội ở thế yếu. Phải công tâm mà nói, CS Hà nội  lo sợ quân Tàu nên có chạy chọt nhiều để tìm hậu thuẫn như của Ấn, Nga, Pháp và Mỹ.
Chạy mạnh nhứt là với Mỹ tương quan kinh tế là cái đà phát triển tương quan quân sự. Thương mại giữa Washington tăng vọt từ 2,91 tỷ đôla năm 2001 lên 15,4 tỷ trong năm qua Mỹ đang thành nước đầu tư nhiều nhứt ở VN.  Lãnh đạo chánh phủ và quốc phòng hai phía  gặp nhau thường xuyên.
Hàng không mẫu hạm USS George Washington đến Đà Nẵng thăm Việt Nam rồi khu trục hạm Mỹ USS John S. McCain  vào cảng Tiên Sa - Đà Nẵng vào ngày 10 tháng 8 năm 2010.. Hải quân Việt Nam và Hạm đội 7 của Hoa Kỳ lại thực hiện một loạt những hoạt động hợp tác trong khuôn khổ kỷ niệm 15 năm quan hệ ngoại giao của hai phía.. Những chuyền viếng thăm nhiều ý nghĩa trong thời diểm nhậy cảm Ngoại Trường Mỹ khẳng định việc giải quyết xung đột Biển Đông là quyển lợi quốc gia của Mỹ. Báo Pháp Le Figaro nói «Obama muốn ngăn chận sự bành trướng trên biển của TC."
Mỹ đã khéo léo gài TC đẩy các nước Đông Nam Á gần với Mỹ hơn. Sau phát biểu của Ngoại Trưởng Mỹ ở Hà nội, Ngoại Trưởng TC tức giận bỏ ra ngoài và khi trở lại hăm he các nước Đông Nam Á và nói thẳng với Mỹ, Mỹ chẳng ăn nhập gì với Biền Đông, vấn đề Biển Đông sẽ được giải quyết  «giữa những người châu Á với nhau». Tư ngữ này theo báo Le Figaro của Pháp làm người ta nhớ lại trong thập niên 30 người Nhật cũng đã từng hùng biện là người da trắng chẳng nên can dự vào châu Á, rồi sau đó xảy ra Thế Giới Đại Chiến 2.
Theo Ông Dương Danh Dy, một nhà ngoại giao lão thành chuyên về TC sự vụ của CS Hà nội nay đã hồi hưu thường phát biểu ý kiến trên các chương trình tiếng Việt của các Đài Phát Thanh Pháp, Anh, Mỹ , thì TC "ngụ ý khá nhiều và cho rằng việc giải quyết vấn đề biển Đông bằng vũ lực là điều khó tránh khỏi". Vì rằng theo Ông Dy, "Nội bộ Trung Quốc, theo tôi, có nhiều vấn đề như bây giờ, như vấn đề biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường rồi tình trạng nông dân, tình trạng phân bố giàu nghèo, rồi trượt đất hay lụt lội. Theo tôi hiểu và theo kinh nghiệm của tôi, mỗi khi trong nước có vấn đề thì Trung Quốc thường tìm cách cho nó xì ra bên ngoài để mà làm xẹp bớt cái phản ứng, phẫn nộ ở trong nước. Ngoài ra, nhân tiện tôi cũng nói luôn một vấn đề khác người ta ít để ý, là do trên đất liền cạn kiệt về tài nguyên, môi trường bị tàn phá cho nên việc khai thác biển Đông, dầu lửa, khoáng sản, hải sản, đang là cái cứu cánh cho Trung Quốc. Cho nên rõ ràng, giờ biển Đông là lợi ích sống còn của Trung Quốc, mà đã là lợi ích sống còn và cộng thêm cái bá quyền nữa, thì tôi xin nói thật là khó có thể lay chuyển được họ."
Và  người Việt yêu nước nghĩ nếu Đảng Nhà Nước CS VN còn chút lương tâm Việt, việc Mỹ xuất hiện  và nhập cuộc vào công cuộc ngăn trở đà bành trướng và xâm thực của Trung Cộng  trong Biển Đông là một cơ may cứu đất nước  mà nhà cầm quyền CS Hà nội cần phải chụp thời cơ./. ( Vi Anh)

Tướng Cộng sản Trung Quốc dám nói rõ sự thật ---- Bùi Tín

Tướng Cộng sản Trung Quốc dám nói rõ sự thật

Bùi Tín viết riêng cho VOA Thứ Bảy, 14 tháng 8 2010

Hình: photos.com

 

Đó là Trung tướng không quân Liu Yazhou - Lưu Á Châu, 53 tuổi, hiện là Chính ủy của Học Viện Quốc phòng Trung quốc.

Trên báo Phoenix (Phượng hoàng), tiếng Anh, xuất bản ở Hồng kông sáng 12-8, xuất hiện bài luận văn của Trung tướng Lưu, được nhà báo John Garnaut giới thiệu, với đầu đề khá hấp dẫn «Quản trị theo mô hình Mỹ hay là chết».

Quả thật đây là một bài báo rất đáng đọc kỹ và đáng suy ngẫm, đối chiếu với tình hình nước Việt Nam ta, với mối quan hệ Việt-Trung và Việt-Mỹ đang là những vấn đề bàn luận nóng hổi, khi gần đến Đại hội XI của đảng Cộng sản Việt Nam.

Tướng Lưu có những suy nghĩ độc đáo, mạnh dạn, ngoài luồng của tư duy chính thống của đảng CS Trung quốc, đi ngược với đường lối cả đối nội và đối ngoại của Nhà nước Trung hoa, nói ngược với cơ quan tuyên huấn, với Nhân dân Nhật báo Bắc kinh, với Tân Hoa Xã.

Xin trích những ý tưởng nổi bật của tướng Lưu trong bài viết:

«… nếu một hệ thống không cho người dân được thở không khí tự do và phát huy sức sáng tạo đến mức cao nhất, nếu hệ thống ấy không lựa chọn được những người tốt nhất làm đại diện cho chế độ và nhân dân để đưa vào các vị trí lãnh đạo, hệ thống ấy sẽ đi đến diệt vong ».

« … bí quyết thành công của Hoa Kỳ không nằm ở phố Wall hay ở thung lũng Silicon mà nằm ở hệ thống luật pháp tồn tại lâu đời và ở hệ thống chính trị gắn liền với nó ».

« … hệ thống của Hoa Kỳ được thiết kế bởi những thiên tài, và giúp cho những người ngu ngốc cũng có thể vận hành được ».

« …một hệ thống tồi khiến một người tốt cũng hành xử tồi, trong khi một hệ thống tốt sẽ khiến ngay cả một người tồi cũng có thể hành xử rất tốt ».

« … Dân chủ là điều cấp thiết nhất; không có dân chủ không thể có sự trỗi dậy bền vững ».

Về con đường Trung quốc phát triển đi lên đạt dân giàu nước mạnh, tướng Lưu khẳng định:

« …một quốc gia chỉ chăm chú nhìn vào sức mạnh của đồng tiền của mình, đó chỉ là một quốc gia chậm tiến và ngu dốt.
Điều chúng ta có thể đặt lòng tin là sức mạnh của sự thật.
Sự thật là kiến thức. Kiến thức là sức mạnh ».

Tướng Lưu kết luận:

« … Trong 10 năm tới, ở Trung quốc, một sự chuyển đổi từ chính trị của vũ lực, chính trị của cường quyền sang dân chủ là điều không thể tránh khỏi ».

« … Liên Xô sụp đổ là vì cải cách chính trị tiến hành quá muộn, chứ không phải vì cải cách chính trị quá mức ».

Trong khi lãnh đạo đảng CS Trung quốc tập trung vào hướng độc chiếm Biển Đông nhằm khai thác tài nguyên dầu mỏ to lớn tại đó thì tướng Lưu khuyến cáo rằng hãy chuyển hẳn sang hướng lục địa phía Tây, nơi có những nguồn tài nguyên đa dạng dồi dào hơn nhiều.

Điều khá lạ lùng là tại sao một luận văn trái chiều, ngược chiều đến vậy viết từ lục địa lại được xuất hiện, được tán phát ra ngoài, được Google dịch ngay và tán phát ra hàng mấy chục thứ tiếng, chỉ sau vài giờ sau khi xuất hiện ở Hồng kông. Sau tờ Phoenix, tờ báo the Age của Úc cũng đưa ngay bài này với nhiều lời bình. Trung quốc lục địa vốn thực hiện biện pháp kiểm duyệt rất nghiệt ngã, tinh vi.

Điều lạ hơn nữa là ông Lưu Á Châu là một Trung tướng thuộc quân chủng Không quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung quốc, là một chính ủy, từ phó chính ủy quân chủng Không quân, vừa lên chức Chính ủy Ðại học Quốc phòng, một cơ sở trọng yếu của quốc gia, lò rèn luyện hàng ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cao cấp cho toàn quân. Nhiệm vụ hàng đầu của chính ủy học viện là quán triệt đường lối chính trị hiện hành của đảng. Vậy mà sao ông Lưu lại có thể tự do viết và gửi bài ra ngoài, với nội dung phóng khoáng, với những ý tưởng mạnh mẽ như những phương châm, những khẳng định chân lý đặc sắc đến vậy?

Và đằng sau ông là ai? Là những ai?

Chúng ta hãy chờ xem phản ứng của nhà đương quyền Bắc kinh, của ban tuyên huấn đảng CS Trung quốc, của các học giả chính thống rất đông đảo ăn lương nhà nước Trung hoa, của Nhân dân Nhật báo, của Tân Hoa xã… xem họ sẽ phản biện ra sao đây?

Tìm hiểu tiểu sử của tướng họ Lưu, được biết cha ông là một sỹ quan cao cấp rất có uy tín, bố vợ ông là cố Chủ tịch nước Lý Tiên Niệm – Li Xiannian, nhiều khóa là Ủy viên thường vụ Bộ chính trị Trung ương đảng CS, một lãnh đạo có tiếng là khắc kỷ - nghiêm khắc trong cuộc sống riêng. Tướng Lưu viết báo từ 4 năm nay, với tư duy sâu sắc, ý tưởng độc đáo và mạnh mẽ, có luận chứng vững. Ông dám bênh vực cuộc nổi dậy của sinh viên ở Quảng trường Thiên An Môn hè 1998.

Các chiến sỹ dân chủ nước ta, mọi tấm lòng tha thiết với tự do vui mừng được đọc bài báo mang tư duy tiến bộ, thâm thúy của một Trung tướng Trung quốc đang tại ngũ, của một chính ủy cộng sản đang tại chức, 53 tuổi, dám nói thẳng ra thanh thiên bạch nhật điều mình cho là đúng, là thật, dù phải nói trái với đảng, nói ngược với bộ chính trị, vì gắn bó với nhân dân mình, sống chết với lẽ phải, kiến thức và chân lý. Một nhân cách đáng tham khảo học tập vậy.

Bùi Tín

 

Thứ Bảy, 14 tháng 8, 2010

ASEAN quyết tâm xây dựng Cộng đồng chung

Các "chính trị gia" hải ngoại cần nhớ,

xin đừng quên Việt Nam năm nay đứng vị thế nào trong khối ASEAN. Vì sao Mỹ hợp tác quân đội bảo vệ lãnh hải Thái Bình Dương. Thập niên này là thập niên nào trong thế kỷ mới. Cơ hội thứ hai của Mỹ trong vùng Á Châu.

NẾU NHƯ HẢI NGOẠI KHÔNG LO TẬP TRUNG NHÌN VÀO NHỮNG KHÍA CẠNH NÀY, ĐỂ ĐỨNG HẲN VÀO LỢI THẾ ĐÓ, THÌ VIỆT TỘC MÃI MÃI BỊ THẤT BẠI VÀ CHIA RẼ.

===========================================================================================================

Tại HNCC ASEAN 16, các nhà lãnh đạo bàn về các vấn đề trọng tâm: thúc đẩy thực hiện Lộ trình xây dựng Cộng đồng và triển khai Hiến chương ASEAN, tăng cường kết nối ASEAN, đẩy mạnh hợp tác ứng phó với các thách thức toàn cầu có tác động đến khu vực, tăng cường quan hệ với các đối tác và vai trò ASEAN, cũng như trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm.

===========================================================================================================

ASEAN quyết tâm xây dựng Cộng đồng chung

Cập nhật lúc 19:51, Thứ Năm, 08/04/2010 (GMT+7)

 - Trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị Cấp cao (HNCC) ASEAN 16 chiều nay (8/4) tại Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng để thực hiện mục tiêu hình thành một Cộng đồng chung của khu vực,  ASEAN cần nâng cao chất lượng của "sự thống nhất trong đa dạng" của Hiệp hội. 

Tham dự HNCC ASEAN 16 tại Hà Nội có lãnh đạo cấp cao các nước thành viên ASEAN, Tổng thư ký ASEAN, đại diện cơ quan liên chính phủ, đại diện đoàn ngoại giao các nước, các tổ chức quốc tế, các bộ, ban, ngành.

Riêng Thủ tướng Thái Lan không tham dự Hội nghị do tình trạng khẩn cấp chính trị trong nước. 

ASEAN và sứ mệnh xây dựng Cộng đồng chung

ASEAN đang hướng tới việc hình thành một cộng đồng chung vững mạnh như EU từng thành công. Sau 4 thập kỷ hình thành và phát triển, ASEAN được đánh giá đã trở thành một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết với 10 quốc gia thành viên.

Tiến tới việc hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với cơ sở pháp lý hoạt động là một Hiến chương chung, ASEAN kỳ vọng trở thành một Cộng đồng đoàn kết, hợp tác chặt chẽ cũng như ASEAN đóng vai trò trung tâm, nhân tố quan trọng bảo đảm hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển ở khu vực.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch ASEAN 2010, khi đề cập việc thực hiện mục tiêu này cho rằng ASEAN cần nỗ lực nhiều hơn để Hiến chương ASEAN thực sự đi vào cuộc sống, nhất là việc hoàn tất các văn kiện pháp ký liên quan, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả bộ máy tổ chức và phương thức hoạt động mới của ASEAN.

Ông cũng nhấn mạnh việc đẩy nhanh việc thực hiện hiệu quả các thỏa thuận về xây dựng Cộng đồng ASEAN, trong đó cần coi trọng "văn hóa thực thi".


"Mục tiêu này đã có những tiền đề quan trọng do kết quả hợp tác ASEAN sau hơn 4 thập kỷ qua… Điều quan trọng chúng ta cần phải có quyết tâm cao và hành động mạnh mẽ hơn, kết hợp hài hòa lợi ích quốc gia và lợi ích chung của cả khu vực, nâng cao chất lượng của "sự thống nhất trong đa dạng" của Hiệp hội", Thủ tướng nhấn mạnh.

Đẩy mạnh liên kết tiểu vùng Sông Mekong

Phục hồi kinh tế và phát triển bền vững là một trong những ưu tiên hàng đầu của ASEAN. Thủ tướng Việt Nam kiến nghị 3 điểm: ASEAN nên đẩy nhanh liên kết kinh tế và tìm ra mô hình phát triển bền vững phù hợp, tăng cường hợp tác kinh tế tài chính Đông Á, trong đó ASEAN đóng vai trò trung tâm, thúc đẩy các giải pháp toàn cầu.

Riêng về liên kết nội khối, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh việc xây dựng kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN nhằm tạo sự liên kết chặt chẽ hơn về hạ tầng - giao thông và công nghệ thông tin, nhất là ở khu vực Tiểu vùng sông Mekong.

Ông cũng đề nghị xem xét và thông qua một Tuyên bố chung về phục hồi và phát triển bền vững, để thể hiện cam kết và phương hướng hành động của ASEAN.


Nước chủ nhà ASEAN 2010 cũng kêu gọi liên kết hành động để đối phó với biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, thiên tai và dịch bệnh đang đe dọa thường xuyên và trực tiếp đến cuộc sống của người dân trong khu vực.

Bên cạnh đó, tiếp tục tăng cường đối thoại và hợp tác về các vấn đề chính trị an ninh, phát huy vai trò là nhân tố quan trọng trong thúc đẩy đối thoại và hợp tác vì hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á cũng như châu Á - Thái Bình Dương, đẩy mạnh hợp tác trong ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác nhằm đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống như khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh và an toàn trên biển, tăng cường quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế quốc tế của ASEAN…




Trung Cộng “ngán” nhất khi các nước đang phát triển hợp thành một khối

Chỉ có một chiến lược mà tôi cho là đã được chứng minh có hiệu quả đối với Trung Quốc: nếu tất cả các nước bị ảnh hưởng đoàn kết với nhau thành một khối và tạo áp lực công khai lên Trung Quốc, thì mới buộc được Trung Quốc ngồi vào vòng đàm phán. Ngoại giao theo kiểu "đóng cửa lại bảo nhau" chẳng có hiệu quả gì, mà phải là sự tập hợp lực lượng đa phương tập trung chĩa mũi dùi về phía Trung Quốc, làm cho họ xấu hổ, thì mới được.


Trung Quốc bao giờ vẫn là Trung Quốc:


ĐÔNG Á BỆNH PHU


1. Tất cả các nước láng giềng bao vây biên giới Trung Quốc liên minh nhau thì TQ không bao giờ xâm lược được thế giới.

2. Các nước láng giềng bị chia rẽ là do Trung Quốc gây ra để xâm lược.


Khi các nước láng giềng gần "và" xa thật xa từ phía Tây, và Bắc đặt chân lên Trung Quốc, thì Trung Quốc bị chia cắt ra trăm mãnh. Xưa Trung Quốc sợ Hồ, Nga, Mông. Thế Kỷ qua Trung Quốc sợ Tây Âu. Bây giờ trong thế kỷ này, TQ sợ các nước Á Châu liên minh dưới sự tích cực hợp tác yểm trợ của các nước láng giềng và Mỹ.


====================================================


Trung Cộng "ngán" nhất khi các nước đang phát triển hợp thành một khối

Bách Lam/Viễn Đông (thực hiện)


Trung Cộng thuê rừng núi Tây Bắc Việt Nam 50 năm để phá rừng trồng cây làm giấy (?!) 


Sự phát triển của Trung Cộng về tiềm năng kinh tế, nhân lực, và chính trị đang đẩy nhanh Trung Cộng tới vai trò của một cường quốc, mở rộng sân chơi cho nước này trên chính trường thế giới. Đồng thời, Trung Cộng cũng không ngừng lấn áp các nước đang phát triển ở các lục địa từ châu Phi qua châu Á để trục lợi, bành trướng lãnh thổ, lãnh hải, nhằm khai thác tài nguyên bất kể những ảnh hưởng tai hại đến môi trường. Một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của sự bành trướng của Trung Cộng là Việt Nam, dưới sự lãnh đạo nhu nhược của đảng cầm quyền Cộng sản. Nào là việc đắp đập ngăn dòng sông Mê Kông đến kế hoạch khai thác quặng bauxite; rồi việc lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải, đến việc chia rẽ những nước láng giềng, Trung Cộng đều tích cực nhúng tay vào nhằm thực hiện mưu đồ bành trướng.
Nhân dịp Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đến tham dự cuộc họp ASEAN vào cuối tháng 7-2010 vừa qua, đồng thời bày tỏ ý hướng sắp tới của Hoa Kỳ về chính sách ngoại giao trong khu vực Đông Nam Á, nhật báo Viễn Đông đã tham khảo ý kiến một số học giả chuyên về Trung Cộng, từ cái nhìn quan hệ ngoại giao Mỹ-Trung và những quyền lợi xung khắc cũng như thuận hợp. Một trong những học giả đó là Tiến sĩ Elizabeth Economy thuộc Học viện Quan hệ Ngoại Giao (Council on Foreign Relations - CFR), trụ sở tại Washington D.C. CFR cũng là tổ chức nghiên cứu ấn hành tạp chí Foreign Affairs được giới chính khách, giới học giả, và độc giả quan tâm về ngoại giao chú ý từ nhiều thập niên qua. Ts. Economy đã dành cho Viễn Đông một buổi phỏng vấn ngày 5-8-2010.


Tiến sĩ Elizabeth Economy là một chuyên gia lâu năm về chính sách nội địa và ngoại giao của Trung Cộng, quan hệ Mỹ-Trung, và các vấn đề môi sinh trên thế giới. Ts. Economy hiện là nhà nghiên cứu C.V. Starr Senior Fellow và giám đốc chương trình nghiên cứu Á châu. Ts. Economy đã viết nhiều chương sách, bài nghiên cứu, bình luận, và những bản phúc trình, trong đó có quyển The River Runs Black: The Environmental Challenges to China's Future (Dòng sông đổi màu đen: Những thử thách môi sinh đối với tương lai Trung Quốc). Hiện tại, bà đang soạn thảo một cuốn sách mới về sự lớn mạnh của Trung Cộng và những chuyển biến về chiến lược, địa lý chính trị trong tương lai. Ts. Economy tốt nghiệp bằng tiến sĩ từ đại học University of Michigan. Bà thông thạo tiếng Hoa và nói được tiếng Nga.

Viễn Đông: Trong chuyến công du vừa qua của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton, tham dự Hội nghị ASEAN tại Hà Nội vào cuối tháng 7-2010, bà Clinton đã nhắc tới việc Hoa Kỳ xem Biển Đông là một phần quyền lợi của Hoa Kỳ, điều này chắc hẳn đã làm cho nhà cầm quyền Trung Cộng "nhảy dựng"...

 


Tiến sĩ Elizabeth Economy: Không nghi ngờ gì nữa!

Viễn Đông: Tại sao vào thời điểm này, mà không phải là trước đây, Hoa Kỳ lại lên tiếng về vấn đề Biển Đông?

 


Ts. Economy: Từ khi Tổng thống Obama đắc cử, các nước trong khu vực Đông Nam Á liên tục nhờ chính phủ Hoa Kỳ (bắt đầu từ thời Bush) chú ý hơn một chút về các vấn đề trong khu vực. Khi TT Obama bắt đầu nhiệm kỳ, ông cho biết là có những hoạch định để tham gia nhiều hơn trong khu vực, và áp dụng những biện pháp đa phương trong các vấn đề ngoại giao toàn cầu nói chung. Đông Nam Á là một khu vực ông quan tâm một phần vì lai lịch của ông. Việc NT Clinton đi công du kỳ này là một phần diễn tiến tự nhiên trong sự cam kết quan tâm dành cho khu vực.

 


Riêng về câu phát biểu của NT Clinton bày tỏ ước mong được giúp đạt đến một cách giải quyết ôn hòa và nêu ra những lợi ích trong việc cố gắng giải quyết vấn đề một cách đa phương, tôi nghĩ đó là một sự phản hồi từ phía Hoa Kỳ đối với các quốc gia trong khu vực đang quan tâm về mối tranh chấp Biển Đông. Vì trong mối tranh chấp này, chúng ta có một bên là các nước nhỏ, và một bên là Trung Quốc khổng lồ, mạnh mẽ, ngày càng hung hăng trong việc khẳng định chủ quyền trên vùng biển này. Trung Quốc cũng đã từng lên tiếng rằng Biển Đông là một trong những quyền lợi nòng cốt của họ. Và mặc dù gần đây họ có dịu đi một chút, điều đó cũng đã gióng một hồi chuông cảnh tỉnh cho các nước trong khu vực và, ở bình diện rộng hơn, Hoa Kỳ ở mức độ cần góp sức giải quyết vấn đề này.

Viễn Đông: Bà có nghĩ rằng sẽ nổ ra việc đụng độ quân sự mạnh mẽ hơn nếu Hoa Kỳ nhúng tay vào?

 


Ts. Economy: Chúng ta đã thấy có những cuộc đụng độ quân sự nhỏ giữa Trung Quốc và một số nước trong vùng cùng khẳng định chủ quyền trên Biển Đông. Nghĩa là, vùng này đã có xảy ra những sự việc có sử dụng quân sự. Tôi không nghĩ rằng Hoa Kỳ muốn có bất kỳ sự liên hệ về quân sự nào trong mối tranh chấp ở vùng này với Trung Quốc, và cũng không muốn đụng độ với Trung Quốc ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Tôi cũng cho là không nước nào trong khu vực lại muốn thấy điều đó xảy ra. Điều rất cần phải có là việc nối lại đàm phán quân sự cấp cao giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, và hội luận đa phương giữa Trung Quốc với các nước liên hệ. Đây thực sự là một thử thách vì Hoa Kỳ đã vạch ra rất rõ ràng ước mong muốn nói chuyện với các viên chức quân sự của Trung Quốc, và đã thử nhiều lần. Nhưng phía Trung Quốc, từ lâu nay, vẫn xem những cuộc đàm phán này như một gánh nặng hơn là một cơ hội. Cho nên, cứ hở một chút, là họ hủy bỏ đàm phán. Tương tự như vậy, trong vấn đề Biển Đông, Trung Quốc cũng chẳng hề mong muốn cùng ngồi xuống với Hoa Kỳ để thảo luận việc này.

Viễn Đông:
Đây cũng không phải lần đầu Trung Cộng có thái độ tránh né đàm phán. Thí dụ, dòng sông Mê Kông đầu nguồn ở Trung Cộng chảy xuống khu vực hạ lưu qua nhiều nước. Từ khi Trung Cộng xây đập thủy điện, những nước ở hạ nguồn bị ảnh hưởng trực tiếp, nhưng Trung Cộng cũng chẳng thiết tha gì đến việc đàm phán đa phương để tìm cách giải quyết những vấn đề môi sinh của khu vực?

 


Ts. Economy: Trung Quốc muốn hợp tác với các nước dọc theo dòng sông Mê Kông để phát triển đập thủy điện, nhưng Trung Quốc chưa bao giờ muốn ngồi xuống với các nước này để nói chuyện về hậu quả môi sinh gây ra do việc khai thác thủy điện ở thượng nguồn, và đương nhiên là họ có lý do trốn tránh. Việt Nam và Campuchia đều cho rằng những gì xảy ra ở thượng nguồn làm ảnh hưởng nặng nề đến nền nông nghiệp của họ ở hạ nguồn. Do đó, Trung Quốc né tối đa việc đàm phán này vì họ biết sẽ bị nhiều áp lực của các nước chịu ảnh hưởng, buộc họ phải thay đổi cách khai thác tài nguyên của họ.

 


Không riêng gì sông Mê Kông, Trung Quốc cũng không chịu ngồi xuống thương lượng với Ấn Độ và các nước Trung Á khi những hoạt động của Trung Quốc ở vùng cao nguyên Tây Tạng ảnh hưởng đến những nước này. Hành vi này có thể gần như được xem là một chính sách của Trung Quốc. Trung Quốc giữ quyền kiểm soát trên những nguồn nước thuộc lãnh thổ của họ, và họ ấn định chủ quyền trên những nguồn nước này. Do đó, câu hỏi căn bản là Trung Quốc nghĩ như thế nào về những nguồn nước trên lãnh thổ của họ.


Biển Tây trong Vịnh Thái Lan giáp với Campuchia cũng là một nơi mà Trung Cộng nhắm tới cho ý đồ bành trướng. Do vậy, càng ngày Trung Cộng càng trở nên thân thiện với Campuchia bằng cách giúp đỡ nguồn tài trợ, nhằm chia rẽ Campuchia và Việt Nam – ảnh: David Nguyễn/Viễn Đông


Viễn Đông: Xem ra Trung Cộng khá là cao ngạo, chỉ chơi theo luật do mình tự đặt ra, không cần đếm xỉa gì đến cộng đồng thế giới, và né tránh bất cứ cuộc thương thuyết nào?

 


Ts. Economy: Trung Quốc né ngay những cuộc đàm phán nào họ thấy không có lợi cho họ, khi họ thấy trong phòng hội thảo chẳng có mấy nước chịu làm bạn với họ. Trung Quốc thường đưa ra luận điệu "cùng hợp tác, cùng thắng", nhưng họ cũng nhìn thấy vấn đề, như ở sông Mê Kông, Trung Quốc là nước nắm giữ tất cả những lá bài tốt.

 


Chỉ có một chiến lược mà tôi cho là đã được chứng minh có hiệu quả đối với Trung Quốc: nếu tất cả các nước bị ảnh hưởng đoàn kết với nhau thành một khối và tạo áp lực công khai lên Trung Quốc, thì mới buộc được Trung Quốc ngồi vào vòng đàm phán. Ngoại giao theo kiểu "đóng cửa lại bảo nhau" chẳng có hiệu quả gì, mà phải là sự tập hợp lực lượng đa phương tập trung chĩa mũi dùi về phía Trung Quốc, làm cho họ xấu hổ, thì mới được.

 


Trung Quốc dẫu sao cũng muốn cộng đồng thế giới nhìn mình như một nước tham dự tích cực. Trung Quốc không muốn bị xem như một kẻ đứng ngoài, một loại "con ghẻ". Tuy nhiên, chỉ khi nào cả thế giới lên tiếng mạnh mẽ về một vấn đề nào đó, như tình hình Sudan được phản ảnh lên Thế Vận Hội 2008, hay hiện tượng khí hậu toàn cầu đang thay đổi như được bàn thảo ở Copenhagen, chẳng hạn, thì Trung Quốc buộc phải lắng nghe.

 


Bình thường, Trung Quốc chẳng hề để tai tới những gì Hoa Kỳ nói, hay Liên Hiệp Âu Châu, hay Nhật Bản, về những gì Trung Quốc nên làm. Nhưng khi các nước đang phát triển hợp thành một mặt trận đoàn kết, bước tới và nói với Trung Quốc là họ có trách nhiệm hơn nữa, Trung Quốc sẽ bước lui và nói rằng họ sẽ không giành những nguồn trợ giúp của thế giới của các nước đang phát triển vì có nhiều nước cần hơn họ, v.v.. Cho nên, tôi nghĩ có cách để thúc đẩy Trung Quốc cùng giải quyết một vấn đề, nhưng cần nhiều cố gắng từ tất cả các quốc gia liên hệ, nhiều thay đổi chính sách, để cùng nói lên tiếng nói mạnh mẽ cho những điều họ quan tâm.

Viễn Đông: Có phải Trung Cộng lùi bước khi các nước đang phát triển đồng loạt lên tiếng là vì Trung Cộng muốn đóng vai "đàn anh", bảo vệ các "em nhỏ"?

 


Ts. Economy: Từ lâu nay, Trung Quốc đã muốn đóng vai trò lãnh đạo các nước đang phát triển. Nhưng họ không thể trở thành một nước lãnh đạo khi các nước đang phát triển ồ ạt lên tiếng phản đối những hành vi của Trung Quốc. Đó là tại sao họ cảm thấy như cần phải có những phản hồi đối với những nước đang phát triển, nhưng chỉ khi nào những nước này cùng đoàn kết để đòi hỏi mà thôi.

Viễn Đông: Với chiều hướng ngoại giao của Trung Cộng như vậy, bà có nghĩ rằng một lúc nào đó trong tương lai, Trung Cộng sẽ lãnh đạo khối các nước đang phát triển, tạo thành một trục thế lực mới, và những nước Âu Mỹ sẽ thuộc về một trục khác, như thời Chiến Tranh Lạnh?

 


Ts. Economy: Không, không hề. Bản đồ ngoại giao thế giới có thể thay đổi theo thời gian tùy theo những biến chuyển về quyền lợi của các nước, và đương nhiên là Trung Quốc sẽ ngày càng bành trướng vai trò của mình trên chính trường thế giới. Chúng ta có thể quan sát được chiều hướng bành trướng của Trung Quốc về mặt quân sự, nhất là lực lượng hải quân. Chúng ta có thể theo dõi những viện nghiên cứu của Trung Quốc để biết những chi tiết về sự nới rộng này. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, trong tương lai, chúng ta sẽ thấy Trung Quốc tích cực tham dự nhiều hơn vào cộng đồng thế giới, nhưng tôi không nhìn thấy điều này như là Trung Quốc và khối các nước phát triển ở một phe, còn phe kia là Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu Châu, v.v..

 


Cho tôi đặt lại câu hỏi này, Việt Nam sẽ thuộc về phe nào nếu có sự phân chia như vậy? (Cười). Mỗi quốc gia có những quyền lợi khác nhau và sẽ có ý kiến khác nhau về những vấn đề cần giải quyết. Ấn Độ và Trung Quốc sẽ có thể làm việc với nhau về hiện tượng thay đổi khí hậu, nhưng Ấn Độ và Trung Quốc đang rất căng thẳng vì những tranh chấp nơi vùng biên giới, đem binh sĩ tới đồn trú ở ngay sát biên giới. Ấn Độ cũng lo ngại về những hành vi của Trung Quốc trên nguồn nước chảy xuống khu vực hạ lưu thuộc về Ấn Độ. Do vậy, chúng ta thấy có những vấn đề nóng bỏng, nảy lửa giữa Ấn Độ và Trung Quốc, nhưng cũng có những vấn đề họ có thể cùng nhau giải quyết một cách hữu hiệu.

 


Nói tóm lại, chúng ta sẽ thấy nhiều biến chuyển trong những mối quan hệ ngoại giao giữa các nước và Trung Quốc dựa trên căn bản của từng vấn đề, chứ không phải việc thành lập một khối "NATO" do Trung Quốc cầm đầu. Nước nào sẽ ghi danh vào khối này? Hỏi thật đó, nước nào sẽ chịu theo vào khối? Bắc Hàn à? Hay Zimbabwe?   

Viễn Đông: Xin cám ơn Tiến sĩ Economy đã dành thời giờ cho buổi phỏng vấn này.

 

Thứ Sáu, 13 tháng 8, 2010

THÀNH LẬP NATO PHƯƠNG ĐÔNG .

THÀNH LẬP NATO PHƯƠNG ĐÔNG .

 

Lê Văn Xương .

 

Nhiều cuộc phô diễn  quân sự liên tục tại Thái Bình Dương của Mỹ cùng các  đồng minh trên vùng biển Hawai cũng như vùng biển Triều Tiên ; các lời tuyên bố mạnh của nhiều quan chức cao cấp Mỹ liên quan đến Biển Đông ; hàng loạt các cuộc thăm viếng của các giới chức Anh đến Ấn Độ ; các dấu hiệu khác cho thấy lần đầu tiên kể từ sau khi rút khỏi Đông Dương năm 1955 theo thỏa hiệp Geneve chia đôi VN năm 1954, Pháp đang tỏ dấu hiệu cho thấy cũng đang chuẩn bị trở lai vùng Đông Dương theo một cách nào đó ; Nga cũng đang tập trận tại vùng Sibia với phương tiện chiến tranh được tăng cường mạnh mẽ, song song với việc mở rộng quan hệ quân sự với VN ; Nhật cũng đang tìm kiếm cách thức củng cố quan hệ chính trị an ninh với VN . Đối lại với các diễn biến đó, Bắc Kinh lên tiếng đả kích dữ dội nhắm vào Mỹ , tập trận bắn đạn thật trên quy mô lớn kết hợp hai hạm đội tại vùng biển Đông của nước ta .

 

Đụng độ quân sự tuy chưa sảy ra theo cách thức kiểu cổ điển, nhưng hình thái chiến tranh hiện đại nhất thực tế đã sảy ra rồi . Tình hình này đặt ra câu hỏi là : có sự khác biệt nào giữa việc Âu Châu xâm lăng Á Châu để biến thành thuộc địa hồi thế kỷ 19, với cuộc trở lại Á Châu của các thế lực Phương Tây hôm nay hay không ? và rồi tương lai của Á Châu sẽ ra sao ? một lần nữa trọng tâm tranh chấp tại Á Châu vẫn tập trú vào vùng bán đảo Đông Dương nà VN là điểm chiến lược quan trọng nhất trong cuộc chiến tối hậu này . Lịch sử đang được lập lại nhưng với chủ hướng mới, hy vọng mới ; cũng khá giống với chính tình Âu Châu trước khi thế chiến II nổ ra vào năm 1939 để dẫn đến chỗ quân Mỹ phải có mặt lâu dài tại Tây Âu để giúp ổn định tình hình tại đấy, xây dựng lại Tây Âu, đối đầu với Liên Xô trong chiến tranh lạnh ; để dẫn đến chỗ về căn bản thì toàn Âu Châu được thống nhất về một mối vào cuối thế kỷ 20 .

 

THẾ GIỚI ĐÃ THAY ĐỔI QUÁ SÂU RỘNG TRONG HAI THẾ KỶ QUA .

 

Văn minh Âu Châu vào thế kỷ 19 thực ra vẫn chỉ mới ở bước khởi đầu trong quá trình chuyển hóa xã hội Âu Châu Trung Cổ sang xã hội Âu Châu hiện đại . Họ chưa thực sự hiểu về chính mình cũng như thế giới khách quan ; cho nên Âu Châu vào thế kỷ 19 vẫn bị chi phối bởi lối hành xử theo kiểu cổ lấy việc chiếm đoạt làm mục tiêu tối hậu để bảo đảm sức mạnh . Chủ trương như vậy đã được biết bao chế độ khác nhau từ đông sang tây thực thi trong suốt mấy ngàn năm lịch sử đã qua . Trước các tranh chấp liên miên tại Âu Châu nhân danh quyền lợi quốc gia, được cổ vũ bởi việc Tây Ban Nha mau chóng trở nên giầu có vượt bực khi xâm chiếm thuộc địa tại Nam và Trung Mỹ . Tây Ban Nha có khả năng chi phối cả Giáo Hoàng La Mã trong việc bảo vệ quyền lợi của Tây Ban Nha tại Tân Thế Giới, cũng như Bồ Đào Nha tại Viễn Đông . Nhiều quốc gia Âu Châu khác có lợi thế trên biển đua nhau tìm kiếm các cơ hội xâm chiếm thuộc địa để vơ vét tài nguyên cũng như bảo vệ thị trường của mình . Anh Quốc nổi lên để rồi đụng độ với Pháp trên biển vào đầu thế kỷ 19 khi thế lực Tây Ban Nha suy yếu hoàn toàn .

 

Nước Mỹ Hội Kín cứ tĩnh tọa chiêm quan các diễn biến sảy ra tại Âu Châu cũng như các vùng thuộc địa do Âu Châu chiếm đóng . Mỹ biết rõ một Âu Châu phân hóa đầy mâu thuẫn sẽ là cơ hội lớn để Mỹ vượt lên lãnh đạo thế giới, giải tán chế độ thực dân cũng như chủ nghĩa Cộng Sản để đem lại cho hòa bình cho thế giới . Các thế chiến, chiến tranh lạnh trong thế kỷ 20 đều nằm trong các toan tính thống nhất đó . Lịch sử lâu đời hàng ngàn năm của Hội Kín Freemason kết hợp với Hội Kín Cựu Dòng Tên là một nhánh thuộc Giáo Hội Công Giáo La Mã tự khắc biết cách thức bình định và xây dựng lại thế giới như thế nào . Cho nên chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa Cộng Sản phải bị dẹp tan là vậy .

 

Có như vậy thì thế giới mới huy động tổng lực được trí tuệ toàn cầu trong việc phát triển khoa học kỹ thuật , vốn được coi là chìa khóa giải quyết hàng loạt các tranh chấp do trình độ chậm tiến về trí tuệ đối với phần còn lại của thế giới gây ra, cũng như các cuộc tranh chấp đòi quyền quyền sống đối với nhiều vùng trên thế giới . Chỉ trong một thế kỷ kể từ khi Albert Einstein xuất hiện chánh thức năm 1915 đến nay, thế giới đã đạt được nhiều tiến bộ rất ngoạn mục không thể tưởng tượng nổi , hứa hẹn khả năng giải quyết căn bản mối lo của nhân loại liên quan đến miếng ăn, chỗ ở, an toàn bản thân . Tài nguyên thiên nhiên chẳng thiếu trên trái đất này, khoa học kỹ thuật cho phép loài người có thể khai thác được các loại tài nguyên trong vũ trụ cũng như khôi phục lại hệ sinh thái toàn cầu . Nhưng nỗ lực lớn lao ấy chỉ thực hiện được khi tranh chấp giữa một nhóm quốc gia vẫn bị chi phối bởi chủ nghĩa bành trướng theo lối cũ phải bị dẹp tan .

 

Nhiều người cảm thấy bi quan khi nhìn thế kỷ 20 toàn thấy chiến tranh thôi, chết chóc quá lớn, tương lai vẫn đầy bất ổn . Thực tế không phải như vậy . Tiến bộ mà con người đạt được trong thế kỷ 20 lớn lao lắm . Xin cứ nhìn Âu Châu trong đầu thws kỷ 20 hỗn mang như thế nào, chế độ thực dân tồi tệ ra sao, nhiều quốc gia Âu Châu cũng như Nhật Bản tiếp tục lao vào con đường chủ nghĩa đế quốc . Sau chiến tranh, đến cuối thế kỷ 20 Âu Châu ổn định, mầm mống chiến tranh bị dẹp bỏ . Người dân Âu Châu - kể cả vùng Balkan đầy sáo trộn về chủng tộc , tôn giáo đã từng là chiến địa của biết bao nhiêu cuộc chiến từ thời cổ đại để lại - ngày nay đã biết đến hòa bình , ổn định và thịnh vượng . Hãy cứ xem nước Nga chủ trương đế quốc từ khi lập quốc đến giờ, cũng chỉ miệt mài thôn tính nước khác, nay đang đạt được các tiến bộ rất đáng khích lệ trong việc hội nhập toàn diện với Âu Châu và đang đóng góp tích cực vào việc tạo dựng một thế giới mới .

 

Đối với phần còn lại của thế giới mà cụ thể nhất là tại Á Châu đầy dẫy các tranh chấp do lịch sử để lại vốn được coi là phức tạp hơn tình hình tại Âu Châu vào đầu thế kỷ 20 rất nhiều, thì ngày nay các giá trị về tự do dân chủ đang từng bước bén rễ trong lòng các xã hội ấy , dĩ nhiên ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào lịch sử của từng vùng . Á Châu quá rộng lớn nên mọi so chiếu với Âu Châu vào hồi đầu thế kỷ 20 cần được chia làm ba vùng  khác nhau , đó là vùng Trung Đông Lưỡng Hà, vùng Nam Á, vùng Viễn Đông . Mỗi vùng có những đặc trưng khác nhau, mức độc chín mùi khác nhau , cho nên cách giải quyết cũng khác nhau đối với thế giới trong thế kỷ 21 này . Mặc dù về tổng quát thì cả ba vùng thuộc Á Châu mênh mông đó bị chi phối sâu rộng bởi chủ nghĩa bành trướng Hán Hoa , các đối sách của Ấn Độ cũng như Nga ở phía Bắc, cũng như các nước Đông Nam Á sẽ làm cho cục diện Á Châu thay đổi sâu sắc trong 20 năm đầu của thế kỷ này .

 

HIỆN TÌNH Á CHÂU .

 

Hai thế chiến cũng như chiến tranh lạnh nhằm mục tiêu cụ thể là giải quyết các mâu thuẫn về quyền lợi giữa các quốc gia Âu Châu với nhau . Dù có những khác biệt nhất định, nhưng nền tảng các xã hội Âu Châu vẫn thống nhất dựa trên tinh thần Kyto giáo ; ấy thế mà Âu Châu cũng không thể tự mình giải quyết được bất đồng quyền lợi, phải nhờ đến sự tiếp tay của Mỹ một cách kiên quyết mới thống nhất Âu Châu được .

 

Tình hình Á Châu phức tạp hơn rất nhiều :

a / tại đó các đế chế đã từng tồn tại liên tục đến 2500 năm , như Hán Hoa, Iran chẳng hạn , họ lại rất hãnh diện về lịch sử  lâu dài của mình nên luôn muốn tái tạo dựng đế chế kiểu xưa bất chấp các thay đổi của tình hình thế giới .

b / tại đó các tôn giáo đã từng là đầu mối của biết bao cuộc chiến sảy ra , các xã hội ấy vẫn chưa thoát khỏi tình trạng bị các nhóm giáo quyền chi phối về mặt tinh thần, nên mọi thay đổi hoặc can thiệp từ bên ngoài dễ dẫn đến điều mà ta gọi là chiến tranh tôn giáo hay chiến tranh văn hóa (Culture Schock) .

c / tại đó họa da vàng trở thành một thực tế hiển nhiên trong thế kỷ này khi Á Châu không còn bị các thế lực phương tây chi phối kềm hãm như đã sảy ra trong quá khứ ; Hồi Giáo có tỷ lệ sinh sản cao nhất thế giới bất chấp các hệ lụy để lại cho thế giới nhỏ bé này ; khối dân Tầu trên 1.3 tỷ sẵn sàng xâm thực thế giới .

d / Á Châu quá khác biệt về chủng tộc do quá trình thiên di cả trên chục ngàn năm để lại , cho nên mâu thuẫn chủng tộc cũng nặng nề hơn rất nhiều so với Âu Châu . Có vùng tiến bộ như Nhật Bản chẳng hạn, nhưng nhiều vùng khác vẫn sống và suy nghĩ như thời Trung Cổ ở Á Châu còn sót lại như Afghanistan chẳng hạn . Các chủng tộc như người Huns trắng sống trong vùng Trung Á đến Afghanistan, người có nguồn gốc Ariel tại Trung Đông, người Huns vàng xuất phát từ Malta thuộc bắc Mông Cổ thuộc Nga ngày nay, người Liujiang tức là Bách Việt cổ xuất xứ từ vùng Quảng Đông hiện nay . Các yếu tố chủng tộc, văn hóa, tôn giáo kết hợp lại làm cho Á Châu trở thành vùng phức tạp nhất thế giới .

e / Thời kỳ bị Âu Châu cai trị để lại cho Á Châu nhiều dị nghị đối với Âu Châu . Chiến tranh lạnh thông qua chủ nghĩa Cộng Sản chủ yếu nhắm vào việc tàn phá trật tự cũ tại vùng đất đầy bất ổn này ; đã đẩy Á Châu rơi vào tình huống bị một vài nước lớn trong vùng nuôi tham vọng thôn tính kiểu thuộc địa cũ .

Á Châu nay bất ổn toàn diện là vậy . Cần giải quyết tình trạng này thì thế giới mới yên được .

 

Á CHÂU KHÔNG THỂ TỰ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC BẤT ỔN TẠI ĐÓ .

 

Lịch sử đã để lại cho ta nhiều bài học để đời, mâu thuẫn song phương luôn dẫn đến chỗ một thế lực khác từ bên ngoài nổi lên nhằm giải quyết các tranh chấp song phương . Trong thời cổ đại tại Trung Đông, Assyrian với Ai Cập tranh chấp đã dẫn đến chỗ bị Persia nổi lên thanh toán cả hai để hình thành đế chế Achaemenid lừng danh một thời . Đế chế vĩ đại do Alexander the Great thành lập sau đó cũng từng bước phải nhường chỗ cho đế quốc La Mã . La Mã suy tàn để hình thành nhiều quốc gia Âu Châu ngang tài ngang sức để dẫn đến chỗ Âu Châu lâm vào chiến tranh triền miên suốt thời Phục Hưng cũng như Trung Cổ . Âu Châu tự mình chẳng thể giải quyết được mâu thuẫn của mình cho đến khi nước Mỹ Hội Kín can thiệp trực tiếp mới giải quyết được vấn đề Âu Châu .

 

Á Châu không có biệt lệ nào cả . Hán tộc bành trướng theo đúng truyền thống của mình là điều chẳng xa lạ gì đối với những ai để tâm quan sát lịch sử Á Châu trong lâu dài . Hán tự coi là chủ của toàn Á Châu xuất phát từ tranh chấp Việt Hán từ thời thái cổ để lại , xuất phát từ cuộc xâm lăng của Mông Cổ trên toàn cõi lục địa Á Châu trải dài đến Trung Đông và Nam Âu thuộc Nga , xuất phát từ chỗ bị Phương Tây khinh mạt trong thời thuộc địa . Dù sao, so với các quốc gia khác tại Á Châu đã bị cái bóng của Hán che khuất trong thời gian lâu dài của lịch sử vùng này . Tại Á Châu này cũng chỉ có hai quốc gia không bị Âu Châu biến thành thuộc địa là Nhật và Hán, mặc dù Hán đã bị Liệt Cường xâu xé bắt phải mở tô giới đối với một số cảng dọc duyên hải , hai lần nha phiến chiến tranh khiến Hán phải mở cửa để người Anh bán thuốc phiện sản xuất từ Afghanistan , Hán phải bồi thường chiến phí . Hán cũng đã từng bị Nhật xâm lăng phải nhượng đất đai cùng vùng ảnh hưởng trên bán đảo Triều Tiên khi Nhật nương theo thế của Anh thông qua các ưu đãi tài chánh kỹ thuật để tạo dựng sức mạnh trong vùng Đông Bắc Á, cản chân Nga đi ra biển, xâm chiếm lãnh thổ Hán trong đầu thế kỷ 20 . 

 

Nhưng chủ quyền của Hán nói chung vẫn tồn tại trong thực tế, Hán đã biết lợi dụng cơ hội đó để học hỏi phương Tây, đưa người đến định cư tại Đông Nam Á cũng như nhiều nơi trên thế giới để hình thành nước Hán hải ngoại . Điều này làm cho Hán có được những hiểu biết về phương tây đầy đủ hơn so với các quốc gia khác vẫn tranh đua với Hán ở phía Nam nay thuộc Đông Nam Á . Đông Nam Á lại là vùng không có quốc gia nào đủ hùng mạnh để làm đối trọng với Hán trên vùng Viễn Đông . Quốc gia có thể làm đối trọng với Hán duy nhất tại Á Châu Lục Địa là Ấn Độ nằm phía tây Hy Mã Lạp Sơn không tiện giao thông đi lại nên hai khối này chưa hề có dịp đụng nhau trong suốt lịch sử lâu đời của Á Châu . Nhưng Ấn Độ lại không phải là quốc gia được hình thành dựa trên cấu trúc chính quyền trung ương hùng mạnh như Hán đã đạt được từ trước thời nhà Hán (tức là nhà Tần) . Tại đó (Ấn Độ) mỗi vùng một thời nổi lên chi phối các vùng khác để hình thành kiểu chính quyền trung ương lỏng lẻo , trong khi các nhà nước nhỏ vẫn tồn tại một cách độc lập . Điều này làm cho nước Ấn dễ trở thành kiểu nhà nước Liên Bang hơn so với Hán .

 

Theo ghi nhận được Concise History of the World ghi lại thì năm 1800 dân số Hán được ghi nhận là 300 triệu , năm 1850 dân số thuộc đế quốc nhà Thanh được ghi nhận là 420 triệu , năm 1854 thì người Hoa đầu tiên tên là Yung Wing đã tốt nghiệp trường Yale . Các con số nêu trên chỉ dựa trên vùng lãnh thổ Hoa Lục do nhà Thanh cai trị hay bao gồm cả các vùng phụ cận mà Thanh Triều tự coi là lãnh thổ của mình là điều không được nói tới rõ ràng . Nhưng như lời Napoleon đã nói : " Trung Hoa thức giấc, thế giới rung chuyển " . Rất đúng như vậy, các sự kiện nêu trên là bước khởi đầu để báo hiệu một Trung Hoa thức giấc . Và như lịch sử toàn vùng đã để lại : " một Hán-Hoa thức giấc thế nào cũng đụng độ với lân bang , chính yếu là với Việt Nam " .

 

Lịch sử Á Châu cho đến cuối thế kỷ 18 vẫn là lịch sử của các cuộc tranh chấp giữa Việt với Hán . Tình hình thay đổi khi văn minh Phương Tây xuất hiện chi phối chính tình trong vùng . Nhiều nước khác vẫn giữ thái độ chống phương Tây cực đoan nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tìm hiểu về văn minh phướng Tây một cách có hệ thống (như trường hợp nhà Nguyễn với Ông Nguyễn Trường Tộ và Bùi Viện chẳng hạn) , nên hiểu biết về thế giới bên ngoài thực tế chậm hơn Hán đến mấy chục năm .

 

Nhà Thanh nổi lên cai trị Hoa Lục đã đẩy rất nhiều tầng lớp cựu quan lại nhà Minh phải đi lưu vong tại Đông Nam Á , từ Đông Nam Á khi thế lực phương Tây xuất hiện trong vùng, những di dân này trở thành những người đầu tiên hợp tác với các thế lực cai trị phương Tây về thương mại, tài chánh . Thế là nước Tầu hải ngoại hình thành , tiếp tục mở rộng đến khắp thế giới, để đặt nền tảng cho chủ nghĩa bành trướng Hán Tộc thời cận đại (dù CS hay Quốc Dân Đảng cũng thế thôi) . Mạng lưới toàn cầu này của Hoa Kiều Hải Ngoại đã thúc đẩy Tôn Văn hình thành chủ nghĩa Tam Dân để vừa đối phó với nhà Thanh đang suy tàn vừa đáp ứng đối với thế lực Phương Tây . Thực ra Tam Dân là khẩu hiệu chính trị có mục đích hứa hẹn cho người dân Trung Hoa về một nước Hán Hoa mạnh về mọi mặt (Dân Tộc) trên căn bản xã hội dân chủ để đem lại đời sống ấm no cho nhân dân (Dân Sinh) , chứ chẳng phải là học thuyết gì cả như nhiều người vẫn hằng suy tôn .

 

Mao Trạch Đông đến với chủ nghĩa Cộng Sản tại Nga là biết xử dụng mâu thuẫn giữa Nga với Tây Âu , dựa trên nhận định mang tính chiến lược là : " kẻ thù của kẻ thù ta là bạn ta " . Mặt khác Nga với Hoa liền biên giới sâu trong nội địa, như vậy Phương Tây không thể can thiệp nhằm hủy diệt sức mạnh của Mao được . Mao coi chủ nghĩa Cộng Sản là công cụ củng cố sức mạnh cho Hán Hoa trong tham vọng bành trướng lãnh thổ để từng bước tới tới việc thôn tính thế giới . Cần lưu ý rằng, một số ít người Cộng Sản thân cận với Mao đều là những người được học hỏi kỹ lưỡng tại Âu Châu như Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình đều du học tại Pháp trước khi tham gia thành lập Đảng CS tầu . Do thế, họ hiểu biết về thế giới hơn hẳn các lãnh tụ chính trị tại các nước Đông Nam Á . Cho nên Mao coi Tưởng chỉ là công cụ của Phương Tây, nên không triệt để thi hành chủ trương bành trướng Hán Tộc được . Mao quyết liệt chống Tưởng là vậy, vì Mao tin rằng Tưởng không biết thương thuyết với Phương Tây dựa trên sức mạnh nên dễ chấp nhận tương nhượng làm mất quyền lợi chiến lược của Hán . (thương thuyết phải dựa trên sức mạnh để hậu thuẫn cho các tương nhượng quyền lợi) .

 

Sự việc Mao bành trướng kết hợp với chủ trương bành trướng của Nga được Stalin thi hành triệt để là cội nguồn của chiến tranh lạnh . Phương Tây mà cụ thể ở đây là Mỹ chủ trương diệt chủ nghĩa bành trướng Nga trước , sau đó đến chủ nghĩa bành trướng Hán Hoa . Việc này ta đang chứng kiến các diễn biến chính trị quân sự đang sảy ra trên toàn cõi Á Châu .

 

Chiến tranh tại Âu Châu làm cho Âu Châu suy yếu đi , đó là cơ hội để Hán cũng như Hồi Giáo nổi lên tạo dựng sức mạnh nhằm cố khôi phục lại vị trí của mình đối với Phương Tây, dựa trên khối dân số mang tính áp đảo để từng bước dẫn tới mục tiêu thống trị toàn cầu của hán kết hợp với Iran cũng là quốc gia có truyền thống xâm lăng suốt từ thời cổ đại đến giờ này . Tham vọng bành trướng đó tất yếu sẽ dẫn đến chỗ đụng độ giữa Hán với Ấn Độ ở phía Tây cũng như với Nga ở phía Bắc, với các quốc gia Đông Nam Á ở phía Nam .

 

SỰ HÌNH THÀNH LỰC LƯỢNG .

 

Khi Mỹ tham chiến trong thế chiến II, Mỹ trực tiếp điều hành hai mặt trận tại Âu Châu cũng như tại Thái Bình Dương . Sức mạnh của Mỹ vào thời điểm đó đã vượt xa Âu Châu cũng như Nhật Bản về mọi mặt . Ngày nay Âu Châu cũng như Nga về căn bản đã thống nhất cùng với Mỹ để tạo dựng lực lượng Đồng Minh thực sự trong lâu dài chứ không phải chỉ là đồng minh ngắn hạn như kiểu hợp tác Nga Mỹ hồi thế chiến II . Mặt khác, khi Tầu bành trướng trên bộ, trên biển, dựa trên sức mạnh kinh tế (Tầu mới tuyên bố vượt qua kinh tế Nhật, để trở thành nền kinh tế đứng hạng hai trên thế giới ) cũng như sức mạnh của đạo quân thứ năm nay có mặt trên khắp thế giới, nhất là vùng Đông Nam Á hiện do Tầu kiểm soát về kinh tế , tài chánh . Việc này ngay tức khắc tạo ra mối quan ngại của các quốc gia trong vùng liên quan đến chủ trương xâm thực của Tầu nhắm vào vùng Đông Nam Á , nên các quốc gia Đông Nam Á phải gấp rút tìm kiếm đồng minh để ngăn chặn đà bành trướng của Tầu xuống phía nam .

 

Tầu bành trướng sẽ tạo ra đe dọa đối với Ấn Độ, với Úc, với Nhật cũng như Nam Triều Tiên . Khi Tầu tuyên bố chủ quyền trên toàn vùng biển Đông của nước ta . Việc đó ngay tức khắc vi phạm luật quốc tế về biển cả . Mỹ cũng như Âu Châu kể cả Nga chẳng thể đứng im nhìn Tầu đe dọa an ninh toàn vùng . Thế lực Đồng Minh nay được mau chóng hình thành dựa trên sự kết nối hàng loạt quốc gia bị Tầu đe dọa quyền lợi sinh tử theo cách trực tiếp hay gián tiếp . Trên tầm nhìn rộng hơn nữa liên quan đến toàn vùng Thái Bình Dương , các nước bên bờ tây của Châu Mỹ cũng chẳng thể đứng ngoài cuộc được , các nước Âu Châu cũng chẳng thể làm ngơ trước hiểm họa do Tầu cố tình gây ra đối với thế giới .

 

Đó là những gì ta đã chứng kiến trong thời gian chưa đầy ba tháng qua khi chiến hạm Cheonan của nam triều Tiên bất ngờ bị tầu ngầm của Bắc Triều Tiên đánh đắm vào cuối tháng ba vừa qua trên vùng biển Hoàng Hải thuộc lãnh hải còn đang tranh chấp giữa hai miền Nam, Bắc Triều Tiên . Biến cố này cảnh tỉnh các nước trong vùng Đông Nam Á về hiểm họa do Hán gây ra đối với an ninh toàn Á Châu trên lục địa cũng như trên biển . Họ phải quyết định một thái độ lập trường cụ thể với Tầu , họ phải chọn một đồng minh trụ cột để tập hợp lực lượng nhằm đối phó hữu hiệu với các đe dọa xuất phát từ Bắc Kinh . Lực Lượng Đồng Minh Lớn được hình thành là vậy .

 

Như thế, xét về tương quan lực lượng thì Hán ngoài dân số trên 1.3 tỷ người được xử dụng như công cụ tràn ngập lân bang khi Hán bị đẩy vào chân tường . Hán tự coi đây là kế sách tối hậu theo kiểu " bất chiến tự nhiên thành " . Một khi Hoa Lục có bị tan hoang do chiến tranh với Mỹ, Nga, Ấn Độ cũng như Nhật trong trận chiến toàn diện bằng vũ khí nguyên tử với hỏa tiễn , thì các nước đối đầu với Hán cũng bị sứt mẻ ở mức độ nhất định . Khi đó số dân Hán cũng đã tràn ngập các lân bang rồi (kể cả vùng Siberia hay Trung Á cũng như Đông Nam Á) . Cho dù có thua trận chiến này thì thực tế, Hán cũng đã chiếm hoàn toàn vùng lãnh thổ xung quanh Hán, diện tích nước Hán sẽ mau chóng tăng lên ít nhất 3 triệu Km vuông đất chỉ trong một coup chiến tranh do Hán cố tình gây ra, và sẽ tiếp tục mở rộng theo cấp số nhân sau đó . Một khi đã chiếm xong Đông Dương cùng với Thái Lan, Miến Điện thì con đường đến Ấn Độ Dương được mở rộng thênh thang cho Hán bành trướng .

 

Hán tự biết là đang bị vây hãm đến mức tối đa bởi nhiều lực lượng Đồng Minh được kết hợp bởi nhiều quốc gia có chủ quyền . Hán đề ra nhiều sách lược khác nhau, tựu chung vẫn là từ từ gặm nhắm các lân bang thông qua mọi hình thức đầu tư thương mại, di dân để tạo dựng thế lực thân Hán tai chỗ, kết hợp với đường lối thương mại lươn lẹo thông qua các công ty khai thác tài nguyên, thực ra là các đội quân xâm lăng trá hình với sự yểm trợ bởi lực lượng quân sự để đe dọa tinh thần các nước lân bang trong kế hoạch xâm lăng mềm . Tuy vậy Hán sẵn sàng đi vào chiến tranh toàn diện kết hợp với di dân ồ ạt chiếm khắp vùng Đông Nam Á cũng như các hải đảo tại Thái Bình dương thuộc dẫy hải đảo thứ hai mà Hán đã dự trù .

 

Trước hiểm họa đó Hoa Kỳ cũng như Đồng Minh đâu còn chọn lựa nào khác ngoài việc củng cố vững chắc khối Đồng Minh rộng lớn, sẵn sàng đánh trả Hán toàn diện về mọi mặt . Cuộc chiến này quả thực vô tiền khoáng hậu là vậy . Điều kiện hiện nay khi so chiếu với thế chiến II có những khác biệt nhất định , trong thế chiến II phe Đồng Minh chỉ hình thành sau khi cả Đức, Ý, Nhật tuyên chiến với Mỹ mà thôi . Vào lúc này Hán không hề tuyên chiến với Mỹ một cách chánh thức, hai phía vẫn đối thoại về những vấn đề có thể đối thoại được, ấy thế mà Mỹ lại thúc đẩy hình thành phe Đồng Minh thì điều này cũng lạ lắm . Như vậy đằng sau đó phải có những vấn đề thật sự nghiêm trọng đang sảy ra trong mối quan hệ Hoa, Mỹ .

 

DIỄN BIẾN TÌNH HÌNH .

 

Sự kiện Cheonan được coi như giọt nước làm tràn ly, lần đầu tiên từ sau thế chiến II đến nay, một chiến hạm bị đánh đắm bởi lực lượng đối nghịch . Thế giới phải phản ứng đúng mức thôi . Nếu không phản ứng đúng cách các quốc gia hung đồ như Iran chẳng hạn có thể đánh đắm chiến hạm các nước khác di chuyển trên vùng biển quốc tế (một tầu dầu của Nhật mới bị tấn công nhẹ trong vùng biển Hormutz thuộc vịnh Persia) . Việc này dẫn đến chỗ hải quân Mỹ cùng với Nam Triều Tiên tập trận trên vùng biển Hoàng Hải phía đông Nam Triều Tiên, vốn được coi là vùng biển nhạy bén đối với an ninh của Tầu . Như vậy việc tập trận này ngoài việc gởi đến cho Bắc Triều Tiên một tín hiệu mạnh mẽ . Mỹ còn gởi đến cho Bắc Kinh một thông điệp rõ ràng : " Mỹ trở lại Á Châu " . Chính thông điệp này đã làm cho Bắc Kinh cảm thấy ngột ngạt . Bắc Kinh cảm nhận được rằng : Mỹ bắt đầu coi Bắc Kinh là kẻ thù trong thực tế . Bắc Kinh không ngờ rằng mối quan hệ Mỹ-Hoa lại tồi tệ đi mau chóng như vậy .

 

Sự kiện Cheonan làm nổ bùng các tranh chấp tại vùng Biển Đông nước ta , cả vùng này Tầu tự coi là lãnh thổ thuộc tuyến hải đảo thứ nhất, được Tầu gọi là vùng biển lưỡi bò . Như thế, an ninh toàn vùng thực tế bị đe dọa nghiêm trọng và rất cụ thể bởi Hán . Hôm nay chiến hạm Nam Triều Tiên bị đánh đắm mà không bắt được tận tay kẻ thù vì Bắc Triều Tiên vẫn chối , ngày mai chiến hạm Mỹ bị đánh đắm theo kiểu như vậy thì sao . Một khi trật tự hàng hải bị đe dọa sẽ dẫn đến biết bao hệ lụy khác tiếp theo sau , như vậy thế giới này thực tế lâm vào thế bị khủng bố bởi quốc gia chứ không phải chỉ là các tổ chức vô chính phủ như al Queda chẳng hạn . Suy rộng thêm nữa ta lại thấy các quốc gia khác cũng chứa chấp các hành vi như vậy, đối với trật tự thế giới thì  hệ lụy đối với thế giới là không thể lường được, do thế Mỹ cũng như các đồng minh trong vùng phải hành động quyết liệt là vậy .

 

Xét trên  cục diện toàn vùng thì, trước tham vọng bành trướng của Bắc Kinh nay ra mặt cấu kết với Iran chủ trương Hồi Giáo Cực Đoan nhằm thao túng vùng Nam Á, thông qua các công cụ tại Pakistan cũng như các nhóm Maoist tại Ấn Độ cũng như các nước nằm ở triền phía Tây của Hy Mã Lạp Sơn, đe dọa an ninh của Ấn Độ trên biển cũng như trên đất liền . Iran là quốc gia thuộc đế chế Achaemenid cách nay trên 2500 năm, có dân số lớn nhất trong vùng Trung Đông ; từ thời cổ đại đã có các tranh chấp với Thổ Nhĩ Kỳ cũng như Ai Cập nhằm dành quyền kiểm soát Lưỡng Hà, đã từng nhiều lần thôn tính Afghanistan cũng như Pakistan . Nay cũng nuôi tham vọng lớn cố khôi phục lại hào quang khi xưa . Do thế sự cấu kết giữa Tầu với Iran là điều hiển nhiên . Điều này giải thích tại sao trên 90,000 trang tài liệu liên quan đến cuộc chiến tại Afghanistan được phổ biến trên mạng điện toán mới đây . Việc thẩm lậu ấy chỉ muốn nhấn mạnh đến một điều duy nhất : " chính là vai trò của Pakistan trong mối liên hệ giữa Tầu với Iran, cụ thể là giữa Pakistan với al Queda  " .

 

Tại sao Pakistan hành động kiểu hai ba mang như vậy ? thật rõ ràng là Pakistan muốn dụng thế của Tầu để gây sức ép với Ấn Độ trong việc đòi chủ quyền vùng Kashemir nơi có đa số dân là người gốc Hồi Giáo . Điều này giải thích tại sao cuộc họp mới đây giữa ngoại trưởng hai nước Pakistan và Ấn Độ đã thất bại , vì Pakistan không muốn tiếp tay giải quyết vấn đề Afghanistan . Trong bài viết trước đây , tôi đã nói : " cuộc chiến tại Afghanistan phải thất bại mới đúng, vì các nước Hồi Giáo liên quan đâu có muốn hợp sức giải quyết các vấn đề của thế giới Hồi Giáo nói chung " . Xét cho cùng ra : Các quốc gia Hồi Giáo đều là các quốc gia thất bại ở những mức độ khác nhau (failed nation) , nếu không có sự can thiệp từ bên ngoài để từng bước cải tiến tinh thần Hồi Giáo nói chung, nhiên hậu đưa các quốc gia Hồi Giáo vào con đường dân chủ tự do thật sự , thì Hồi Giáo luôn là mối đe dọa đối với an ninh toàn cầu .

 

Tại vùng Viễn Đông, trước tham vọng bành trướng công khai của Tầu trên biển cũng như trên lục địa . Không nước nào tại Đông Nam Á đủ sức ngăn chặn đà bành trướng của Tầu trong vùng . Giữa Đông Nam Á với Đông Bắc Á, về mặt chiến lược Đông Nam Á chi phối an ninh toàn cầu , từ Nam Đại Tây Dương đến Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương , cho nên nỗ lực chính của Tầu tập trung vào đây được coi như mũi nhọn tấn công chính . Do cục diện trong vùng thay đổi mau chóng như ta đã chứng kiến trong mấy tháng qua, nên các nỗ lực ngoại giao từ phía Mỹ và các đồng minh đã được thúc đẩy mạnh mẽ như chưa từng sảy ra trong quá khứ . Các nỗ lực ngoại giao nhằm hình thành lực lượng toàn vùng chống lại chủ trương bành trướng của Bắc Kinh dựa trên chủ điểm : Quốc Tế Hóa vấn đề Biển Đông .

 

Vấn đề Biển Đông liên hệ mật thiết đến an ninh của VN vốn được coi là khu vực chiến lược quan yếu nhất chi phối an ninh toàn vùng cũng như toàn cầu . Việc sắp xếp để VN nắm giữ vai trò Chủ Tịch Luân Phiên của Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á đã được dự kiến từ gần mười năm trước , trùng hợp với thời điểm Tầu tung đòn đe dọa xâm lăng Á Châu trên mọi mặt trận trên lục địa cũng như trên biển . Trước các đe dọa cụ thể đó, các nước Á Châu tự biết là không thể một mình đương cự với Tầu nên đã thống nhất chủ trương yêu cầu Mỹ cùng kết hợp với NATO trở lại Á Châu để ổn định tình hình . Chủ trương này rất phù hợp với ước muốn của nhân dân các nước Á Châu, đặc biệt tại Đông Nam Á , là nơi hiện bị Tầu đe dọa nặng nề nhất và cũng là nơi hiểu thấu các lợi ích của dân chủ với thị trường tự do trong việc tạo dựng một xã hội thịnh vượng , như đã được chứng minh trong hơn 40 năm qua .

 

Các hoạt động ngoại giao của Mỹ trong thời gian hơn năm qua là sự tiếp nối các hoạt động ngoại giao từ thời Ông Bill Clinton đến Ông Bush để lại, chủ yếu thuyết phục VNCS biết nhìn thấy các hiểm họa tiềm ẩn để thực hiện các thay đổi nhằm đáp ứng với tình hình như đang diễn biến hiện nay . Vấn đề quốc tế hóa Biển Đông là chủ đề an ninh quan trọng nhất đối với Đông Nam Á, VN trong vai trò làm Chủ Tịch luân phiên hiện nay, đồng thời cũng là nước bị Bắc Kinh trực tiếp đe dọa nặng nhất , nên là quốc gia đứng mời họp Diễn Đàn An Ninh khu vực tại Thăng Long mới đây quả là rất phù hợp . Để hỗ trợ cho cuộc họp của Diễn Đàn khi Bà Ngoại Trưởng Mỹ tuyên bố chủ trương an ninh mới của Mỹ đối với vấn đề Biển Đông(tức là Quốc Tế Hóa ) , Mỹ điều ba tiềm thủy đỉnh loại Ohio đến ba địa điểm khác nhau là Pusan thuộc Nam Triều Tiên, Subic bay thuộc Phi Luật Tân, Diego Garcia thuộc Ấn Độ Dương . Sự xuất hiện của ba tiềm thủy đỉnh nguyên tử chiến thuật này tạo thành một tam giác mang ý nghĩa bao vây Tầu về mọi hướng trên biển .

 

Mỹ điều động một lực lượng hải quân hùng mạnh đi vào Ấn Độ Dương thông qua kinh đào Suez như biểu tượng nhấn mạnh đến an ninh khu vực vịnh Persia nhắm vào Iran . Mỹ tiếp tục mở rộng việc tập trận mỗi tháng từ nay đến cuối năm với quân đội Nam Triều Tiên . Điều này cho thấy, cuộc tập trận tại Hawai và vùng phụ cận nhắm vào vùng biển Guam đến Coral Sea (bắc Úc) chắc chắn sẽ được tiếp tục song song với các cuộc tập trận với Nam Triều Tiên . Các chuẩn bị như vậy nhằm hoàn thiện phối hợp tác chiến đa phương nhằm đối phó với các đe dọa từ hải cũng như không quân Tầu . Đối lại với hàng loạt các diễn biến mới nhất như vậy, Bắc Kinh ra lệnh thực hiện một cuộc tập trận bắn đạn thật trong vùng biển đông của ta lên đến vùng Hoàng Hải trực tiếp dưới quyền của Tư Lệnh Hải Quân Tầu (vùng biển Hoàng Hải hiện đang bị dầu tràn trên quy mô lớn hơn dự kiến ban đầu của bắc Kinh, cũng như hàng loat thiên tai khác nữa ) .

 

Đối với Ấn Độ, lịch sử Ấn Độ luôn để lại nhiều bước ngoặt rất bất ngờ . Tuy chủ trương bất bạo động nhưng họ cũng có thể bất ngờ trở thành thế lực mạnh . Việc này được minh chứng rất rõ khi triều đại Chandragupta Maurya mau chóng trở thành thế lực hùng mạnh thống nhất vùng này vào năm 325 BC khi Alexander Macedoine thất bại trong cuộc trường chinh nhắm vào vùng Nam Á, trùng hợp với cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tầu . Đến thời vua Ashoka năm 250 BC phát triển cực thịnh song song với thời nhà Tần, nhà Hán bên Tầu . Lịch sử Ấn Độ sau này cũng luôn chứng minh như thế : mỗi khi Hán mạnh lên thì Ấn cũng mạnh lên , mặc dù hai phía chưa hề đụng độ trực tiếp trong quá khứ . Thật cũng trớ trêu là mỗi khi Hán mạnh lên thì Việt cũng mạnh lên để cản chân Hán . Ba khối này : Việt, Hán, Ấn dường như có cái nghiệp phải như thế để bẻ gẫy tham vọng bành trướng của Hán Hoa . Truyện xưa đã thế, truyện nay cũng vậy . Việc kết thân giữa Việt với Ấn là tất yếu lịch sử . Cả lịch sử của Việt lẫn Ấn về mặt văn hóa và văn minh cũng như địa lý chiến lược cũng xứng đáng để kết thân với nhau trong canh bài chiến lược này .

 

Với Nga thật rõ ràng là nay cảm nhận được hiểm họa Hán Hoa một cách cụ thể . Nga cần hành động quyết liệt đúng theo truyền thống của mình nhằm bảo toàn lãnh thổ ; đồng thời chuẩn bị cho thời đại Toàn Cầu Hóa ngay trên lãnh thổ Nga, để cả vùng Siberia rộng lớn đó được khai thác có trật tự trong khuôn khổ luật pháp thế giới do Chính Quyền Toàn Cầu quy định sau này . Cho nên việc Tầu quyết chiếm vùng này sẽ không bao giờ được thế giới chấp nhận . Song song với các cuộc tập trận giữa Mỹ với các đồng minh trong vùng Á Châu, Nga cũng tiến hành tập trận trên đất liền thuộc vùng Siberia . Về mặt trận trên biển, Nga không có gì phải âu lo về sự hiện diện hùng mạnh của hải quân Mỹ trong vùng , Nga cần tập trú vào vấn đề an ninh trên lục địa trải dài từ Trung Á đến vùng Viễn Tây thuộc Siberia thuộc Nga . Trong điều kiện hiện nay của Á Châu Lục Địa , việc Nga tăng cường quân đội trên quy mô lớn trong vùng phía đông Ural dường như là một thực tế rõ ràng khi tai ương trong vùng này sẽ gia tăng mạnh trong thời gian sắp tới đây . Như vụ cháy đang sảy ra tại vùng trung Nga đã thiêu hủy nhiều trăm căn nhà là rõ rệt ; tai ương chưa chấm dứt ở đấy , còn nhiều tai ương khác sẽ sảy ra trong vùng Sibia trong tương lai tới đây .

 

Thực tế, không ai có thể dự liệu được tai ương do thiên nhiên gây ra đối với trái đất này . Các tai ương đó đều có liên hệ theo cách nào đó do việc khai thác thiên nhiên một cách vô trách nhiệm do con người gây ra . Lũ lụt tại Hoa nam, lũ lụt tại Pakistan đã làm cả ngàn người chết, lượng mưa lên đến 300 mm trên vùng lãnh thổ Pakistan chắc chắn sẽ gây ra các thảm họa đối với trên 30,000 con đập được xây dựng vô trách nhiệm tại Tầu . Việc này sẽ gây ra thảm họa đối với các quốc gia ở hạ nguồn , quan trọng nhất chính là con đập khổng lồ Tam Khẩu . Không ai thực sự biết được được hậu quả sẽ ra sao một khi con đập này bị vỡ hoặc lượng nước quá lớn khiến Bắc Kinh phải xả nước để cứu nguy con đập . Vụ tràn dầu tại vùng biển Hoàng Hải thuộc Tầu quả thực rộng lớn hơn rất nhiều so với những gì mà Tầu chánh thức công bố, để dẫn đến chỗ Tầu không thể kiểm soát được lượng dầu tràn ra biển . Trong lâu dài ảnh hưởng sâu rộng đến hệ sinh thái trên vùng Hoàng Hải . Một khi dầu lan đến các nước láng diềng của Tầu phá hủy sinh thái các nước ấy, thì ai chịu trách nhiệm tẩy sạch ; Tầu có chịu trách nhiệm bồi thường phí tổn do phá hủy môi sinh cũng như tẩy sạch hay không ? Trong một diễn biến khác cũng rất đáng quan tâm khi nhà máy hóa chất tại Quảng Đông bị nổ mới đây, đã phóng khí độc vào không gian . (ai chịu trách nhiệm ? ) .

 

Những việc như vậy sảy ra đều do Tầu bất chấp các quy luật an toàn tối thiểu do việc gia tăng sản xuất tối đa trong khi lại giảm tối đa việc bảo trì cũng như giữ cho máy móc hoạt động trong giới hạn an toàn mà điều kiện kỹ thuật đòi hỏi . Những vụ nổ như vậy sẽ còn sảy ra dài dài tại Tầu trong thời gian tới đây . Một nước Tầu vô trách nhiệm đối với dân Tầu, cũng là vô trách nhiệm đối với các lân bang cũng như thế giới . Như thế giải quyết vấn đề Á Châu, thực tế chính là giải quyết vấn đề Hán Hoa chủ trương tàn phá thế giới một cách vô trách nhiệm để nhiên hậu đặt ra luật pháp toàn cầu quy định các biện pháp an toàn công nghiệp được coi là nguy hại đối với môi sinh và thế giới (toxic) .

 

Á Châu thực tế đang chứng tỏ rằng : Á Châu không thể tự mình giải quyết được vấn đề của chính Á Châu . Tình hình này cũng giống như Âu Châu vào thế kỷ 20 , Âu Châu cũng đã từng thất bại trong việc giải quyết các vấn đề của chính Âu Châu, nên Mỹ bắt buộc phải can thiệp để hình thành lực lượng Đồng Minh giải quyết tranh chấp tại Âu Châu . NATO Phương Tây được thành lập để ổn định tình hình Âu Châu là vậy ; trên nền tảng đó, các bất đồng giữa Âu Châu với nhau được giải quyết để vĩnh viễn chấm dứt chiến tranh tại Âu Châu để thống nhất Âu Châu về một mối . Á Châu ngày nay cũng không mấy khác biệt . Muốn giải quyết tận gốc rễ bất ổn tại Á Châu ; Mỹ cũng như Âu Châu không còn chọn lựa nào khác ngoài việc thành lập và củng cố Khối Đồng Minh Lớn trên quy mô toàn cầu, bao gồm các quốc gia tự do dân chủ nằm trên hai bờ Thái Bình Dương kết hợp với các quốc gia Âu Châu cũng như Ấn Độ . Các nhà làm chính sách toàn cầu gọi đó là NATO Phương Đông, như lời bà Thủ Tướng Đức Angela Mackel nói cách nay trên sáu tháng .

 

Á Châu quá rộng lớn, quá phức tạp về văn hóa chủng tộc, nối liền với Âu Châu lục địa, nối liền với Châu Mỹ qua Thái Bình Dương . Lục địa Á Châu lại gồm nhiều quốc gia thất bại (Failed Nation) nên không thể tự mình giải quyết các vấn đề của Á Châu được . Do thế, sự hiện diện của Mỹ với Âu Châu là thực sự cần thiết nhằm bảo đảm cho hòa bình tại Á Châu . Chủ hướng này hiện được nhiều nước Á Châu dân chủ, tự do ủng hộ nhiệt tình . Cho nên việc Âu Mỹ trở lại Á Châu vào thời điểm này, tuyệt đối không thể coi như tương đồng với thời kỳ thực dân chủ nghĩa vào thế kỷ 19 được . Vì :

a / chủ nghĩa thực dân đã bị loài người vĩnh viễn gạt bỏ sau thế chiến II rồi .

b / Á Châu nay bao gồm các quốc gia dân chủ có chủ quyền hoàn toàn .

c / Việc Âu Mỹ trở lại Á Châu là đáp ứng đúng với nhu cầu thiết thân của chính đa số người dân Á Châu trong ước vọng muốn có được đời sống an hòa và sung mãn hơn .

d / Giải quyết vấn đề Á Châu được coi là mấu chốt trong thế kỷ 21 này, nhiên hậu mới thống nhất nhân loại về một mối được . Khối Đồng Minh Lớn hoàn toàn có đủ chính nghĩa để dẹp tan chủ nghĩa bành trướng Hán Tộc do một nhóm nhỏ tại Bắc Kinh chủ trương .

 

Các chuẩn bị hiện nay xét về tổng thể đang diễn biến đúng như thế khi Bà Ngoại Trưỡng Mỹ chánh thức tuyên bố tại Diễn Đàn An Ninh khu vực tại Hà Nội tuần qua là : Mỹ có quyền lợi tại Á Châu, Mỹ ủng hộ chủ trương Quốc Tế Hóa tranh chấp tại Biển Đông do Tầu gây ra, Mỹ không đứng về phe nào trong cuộc tranh chấp này . Dĩ nhiên Tầu phản ứng quyết liệt khi cho Bộ Trưởng Ngoại Giao cũng như Quốc Phòng Tầu đều lên tiếng quyết liệt chống lại chủ trương này của Mỹ , Bắc Kinh vẫn khăng khăng xác định chủ quyền không thể tranh cãi trên toàn vùng biển Đông . Lập trường của Bắc Kinh như thế nên được coi là : Tầu công khai xâm lăng các quốc gia có chủ quyền trên toàn vùng, thế giới đâu còn chọn lựa nào khác ngoài việc gia tăng tối đa các nỗ lực vây hãm Tầu về mọi mặt để bẻ gẫy tham vọng bành trướng của Bắc Kinh . Việc hình thành Khối Đồng Minh Lớn quả thực quá cần thiết vào thời điểm này của lịch sử .

 

Để đáp ứng với các lời kêu gọi đó , các thành viên trụ cột của Âu Châu đã đáp ứng tích cực ngay tức khắc khi : Thủ Tướng Anh Cameron đến thăm Ấn Độ - vốn là cựu thuộc địa của Anh - để minh định lập trường của Anh là : " nước Anh sẵn sàng nhận trách nhiệm cùng với người Nga trên vùng Nam Á " . Trong một diễn biến khác, Bộ Trưởng Quốc Phòng Pháp Herve Morin đến thăm VN ngày 26-7-2010 để bàn về hợp tác quân sự Pháp-Việt , việc này cho thấy Pháp cũng sẽ nhận lãnh một vai trò tại Đông Dương vốn là cựu thuộc địa Pháp . Mặt khác Giáo Hoàng đã cử nhiệm Đặc Sứ Tòa Thánh không thường trực tại VN là Linh Mục Tổng Quản Hội Thừa Sai Paris, Pháp (theo tin từ WWW Nữ Vương Hòa Bình) . Việc này không đơn giản như nhiều người nghĩ . Chỉ xin lưu ý quý bạn đọc về lời phát biểu trước đây của tôi liên quan đến vụ Đức Cha Kiệt cũng như Giáo Hội Thiên Chúa Giáo VN là : Các hoạt động của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo VN báo hiệu chiều hướng đến mấy trăm năm tới đối với tương lai của nước ta .

 

Tầu chủ trương bành trướng, xâm thực lân bang là điều đã trở thành lời nguyền của Hán, chúng chẳng thể dễ dàng từ bỏ . Thời kỳ thực dân tại Á Châu đã tạo điều kiện cho Tầu bành trướng mềm xuống vùng Đông Nam Á cũng như trên toàn thế giới . Chiến tranh lạnh đã tạo cơ hội để Bắc kinh củng cố sức mạnh để chuẩn bị lực lượng xâm lăng toàn vùng, đe dọa an ninh thế giới một cách có hệ thống . Thế giới đã dành quá nhiều thời gian cũng như kiên nhẫn để thuyết phục Bắc Kinh từ bỏ tham vọng của mình . Bắc Kinh một mực cự tuyệt . Như thế các nước dân chủ tự do tại Á Châu đâu còn chọn lựa nào khác ngoài việc hợp tác với thế giới để giải quyết dứt khoát vấn nạn Hán Hoa . Chiến tranh hiện nay rất vi diệu, các kinh nghiệm cũ chẳng thể ứng dụng được , các kế sách chẳng thể để lộ ra ngoài . Nhưng các diễn biến hiện nay cho thấy : Tầu sẽ bị khốn khổ vì chính lối hành động vô trách nhiệm do chính Tầu tự gây ra cho mình đối với tự nhiên .

 

Khi Bắc Kinh không thể giải quyết được vấn đề nội bộ, như truyền thống của Hán để lại, chúng sẽ tung lực lượng xâm lăng các lân bang bằng đủ mọi cách khác nhau . Thế giới cũng như các nước Á Châu cần cảnh tỉnh trước âm mưu này của Tầu . Một nước Tầu bị phân rã mới bảo đảm an ninh lâu dài của Á Châu và thế giới được . Nhưng như nhiều bài học lịch sử đã để lại : một con thú lớn khi dãy chết thế nào cũng gây ra các hệ lụy cho vùng xung quanh , thời gian từ khi con thú bị chết cho đến khi thân xác bị thối rữa cũng lâu hơn . Các lân bang của Tầu càng cần hợp tác mật thiết hơn nữa trong tương lai, chẳng nên hợp tác trước kẻ thù chung sau đó lại đường ai nấy đi . Tương lai của Đông Nam Á nằm trong chủ trương hợp tác chân thành giữa các nước Đông Nam Á với nhau , cũng như giữa Đông Nam Á với các nước Âu Mỹ . Khối Đồng Minh Phương Đông hay cũng gọi là NATO Phương Đông quả thực là đáp ứng đúng với nguyện vọng của đa số người dân Á Châu vậy , bất kể anh là Hồi Giáo hay Phật Giáo, bất kể anh ở Hoa Lục hay Nam Á hoặc Đông Nam Á .

 

Hy vọng đa số người Việt trong ngoài nước biết phải làm gì cho tương lai lâu dài của đất nước .

 

Xin cám ơn quý vị đã đọc bài này .

 

Lê Văn Xương ,  July – 30 – năm 2010 .

FBI Kêu Gọi Đồng Bào Hợp Tác

Tổng Cục II - 1 of 6

Tổng Cục II - 2 of 6

Tổng Cục II - 3 of 6

Tổng Cục II - 4 of 6

Tổng Cục II - 5 of 6

Tổng Cục II - 6 of 6

nguyen chi vinh 1 of 8

nguyen chi vinh 2 of 8

nguyen chi vinh 3 of 8

nguyen chi vinh 4 of 8

nguyen chi vinh 5 of 8

nguyen chi vinh 6 of 8

nguyen chi vinh 7 of 8

nguyen chi vinh 8 of 8